SKKN Một số kinh nghiệm chỉ đạo hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy để nâng cao chất lượng môn ngữ văn Trường THCS trong việc đổi mới phương pháp dạy học phát triển tư duy năng lực của học sinh
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học môn Ngữ Văn luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy Văn là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.
Bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là một trong những bộ môn có dung lượng kiến thức và số tiết dạy nhiều. Thực tế cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau, kĩ năng lập hệ thống luận điểm, luận cứ trong bài văn nghị luận còn có nhiều hạn chế.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu vận dụng vào thực tế giảng dạy, tôi thấy việc sử dụng BĐTD trong dạy học môn Ngữ văn có hiệu quả thiết thực, cần được triển khai nhân rộng trong các nhà trường. Bên cạnh đó, với những phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, giáo viên và học sinh đã được làm quen với máy tính, sử dụng thông tin trên mạng internet khá thành thạo, tư duy của con người hiện đại cũng đã có những bước phát triển nhanh nhạy để dễ tiếp cận với cái mới.
Đó cũng là điều kiện thuận lợi để giáo viên và học sinh có thể học tập, nghiên cứu và sử dụng có hiệu quả BĐTD trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Với thời gian thực nghiệm chưa được nhiều, trọng nội dung bài viết này, tôi cũng xin được trình bày một vài kinh nghiệm nhỏ về việc sử dụng BĐTD trong dạy học môn Ngữ văn ở cấp THCS mà tôi đã đúc rút được trong thời gian vừa qua. Tôi chọn đề tài một số kinh nghiệm chỉ đạo hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy để nâng cao chất lượng môn ngữ văn Trường THCS trong việc đổi mới phương pháp dạy học phát triển tư duy năng lực của học sinh.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lí do chọn đề tài Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học môn Ngữ Văn luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy Văn là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay. Bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là một trong những bộ môn có dung lượng kiến thức và số tiết dạy nhiều. Thực tế cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau, kĩ năng lập hệ thống luận điểm, luận cứ trong bài văn nghị luận còn có nhiều hạn chế. Trong quá trình học tập, nghiên cứu vận dụng vào thực tế giảng dạy, tôi thấy việc sử dụng BĐTD trong dạy học môn Ngữ văn có hiệu quả thiết thực, cần được triển khai nhân rộng trong các nhà trường. Bên cạnh đó, với những phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, giáo viên và học sinh đã được làm quen với máy tính, sử dụng thông tin trên mạng internet khá thành thạo, tư duy của con người hiện đại cũng đã có những bước phát triển nhanh nhạy để dễ tiếp cận với cái mới... Đó cũng là điều kiện thuận lợi để giáo viên và học sinh có thể học tập, nghiên cứu và sử dụng có hiệu quả BĐTD trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Với thời gian thực nghiệm chưa được nhiều, trọng nội dung bài viết này, tôi cũng xin được trình bày một vài kinh nghiệm nhỏ về việc sử dụng BĐTD trong dạy học môn Ngữ văn ở cấp THCS mà tôi đã đúc rút được trong thời gian vừa qua. Tôi chọn đề tài một số kinh nghiệm chỉ đạo hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy để nâng cao chất lượng môn ngữ văn Trường THCS trong việc đổi mới phương pháp dạy học phát triển tư duy năng lực của học sinh. 2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu: A. Mục đích nghiên cứu: - Tôi nghiên cứu vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng môn ngữ văn THCS phát huy vai trò chủ động sáng tạo của học sinh THCS đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. - Tìm ra con đường, phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, tạo cơ sở thực hiện mục tiêu nhiệm vụ năm năm học. B. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về việc một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy để dạy tốt môn ngữ văn THCS Đông Thọ thành phố Thanh Hóa Nâng cao chất lượng trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Được áp dụng trong năm học 2011 đến 2015. - Đối tượng: Học sinh trường THCS Đông Thọ 3 .Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tìm ra phương pháp dạy học phù hợp chỉ đạo giáo viên và các tổ chuyên môn trong việc giảng dạy đối tượng HS lớp THCS với chuẩn kiến thức kỹ năng cơ bản phát huy vai trò chủ động sáng tạo và phẩm chất đạo đức học sinh, giáo dục kĩ năng sống. -Tạo cho học sinh có hứng thú, yêu thích môn học, tự ôn tập đào sâu, mở rộng kiến thức, lĩnh hội kiến thức mới, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức quan sát, phát huy ý thức tự lực của học sinh góp phần làm phát triển tư duy sáng tạo của các em. 4. Phương pháp nghiên cứu: Đọc tài liệu các văn bản có liên quan đến vấn đề một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy để dạy tốt môn ngữ văn THCS Đông Thọ trong việc đổi mới phương pháp dạy học Tham khảo các đề, các bài mẫu 5. Các giải pháp khoa học: - Áp dụng chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học bậc THCS. - Tìm tòi những giải pháp hay, những bài tập phù hợp với tất cả các đối tượng HS mà bản thân trực tiếp giảng dạy. Việc vận dụng, áp dụng các giải pháp trên đúng qui trình, đúng phương pháp những giải pháp mang tính thực thi thì hiệu quả công tác bòi dưỡng học sinh giỏi tốt hơn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận của vấn đề: Văn học nghệ thuật đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống, nó giúp con người hiểu được cuộc sống và hiểu được chính mình, sống có tình thương, có đạo lí, có văn hoá, vượt qua cái tầm thường, phàm tục để thăng hoa, để ước mơ, vươn tới Chân –Thiện – Mỹ. Văn học là lĩnh vực của cái đẹp, là nghệ thuật. Qua văn học, con người cảm nhận và ý thức được cái đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, tự nâng mình lên với những tư tưởng, tình cảm sâu sắc, tinh tế, được bồi dưỡng về ngôn ngữ - thứ ngôn ngữ phong phú, sinh động, giàu sức biểu cảm nhất của dân tộc. Nhân loại đã gửi vào trong văn thơ bao kinh nghiệm sống, cả tình yêu, khát vọng... Tham gia vào hoạt động văn học, cho dù là sáng tác hay thưởng thức, tâm hồn ta đều được thanh lọc để sống tốt hơn, nhân ái hơn. Văn học còn là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường cũng như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “ bé con” giá trị? Trong quá trình dạy học môn ngữ văn trong nhà trường phổ thông, chắc chắn có không ít giáo viên còn băn khoăn: “Thế nào là một học sinh giỏi văn? Mới nghe qua tưởng không khó trả lời nhưng thực ra hoàn toàn không phải vậy mà còn nhiều điều chưa dễ thống nhất vì một học sinh giỏi văn thường được bộc lộ dưới hai khía cạnh sau: Học sinh có năng khiếu, học sinh có năng lực cảm thụ các tác phẩm văn học. bằng sơ đồ tư duy là cách học mới và ghi nhớ nhanh nhất Hiện này đổi mới phương pháp dạy học mới bằng sơ đồ tư duy là vô cùng hiệu quả đòi hỏi giáo viên bỏ công sức thiết kế hướng dẫn cho học sinh giúp học sinh nhận thức ghi nhớ nhanh nhất và hiệu quả nhất. 2. Thực trạng vấn đề a. Thuận lợi Trong những năm qua ngành Giáo dục & Đào tạo Thành phố Thanh Hóa nói chung và trường THCS Đông Thọ nói riêng luôn luôn chú trọng công tác xây dựng đội ngũ mũi nhọn trong công tác dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi và nâng cao chất lượng đại trà bằng các phương tiện dạy học hiện đại sơ đồ tư duy bàn tay nhào bột nhằm phát huy tích sáng tạo chủ động lĩnh hội tri thức của học sinh thông qua hướng đẫn của thầy các con ghi nhớ nhanh vì lượng kiến thức thì nhiều đặc biệt môn môn và tiếng \việt. Hàng năm luôn lựa chọn đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề để Nhà trưòng luôn tổ chức các chuyên chuyền đề mang tính cập nhật cho giáo viên tham gia , gv nhiệt tình hưởng ứng tích cực tổ chuyên môn luôn luôn động viên anh chị em ứng dụng công nghiệ thong tin vào giảng dạy đem lại hiệu quả cao. Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt của nhà trêng cũng luôn khởi sắc. Số lượng giáo viên giỏi, học sinh đạt giải trong các kì thi chọn học sinh giỏi các cấp ngày càng tăng. Bản thân giáo viên cũng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong giảng dạy. Đầu tư thích đáng cho việc tìm tòi và mua các tài liệu tham khảo và đổi mói phương pháp dạy học hướng đãn trực tiếp cho giáo viên và học sinh tham gia có hiệu quả cao học sinh hướng thú tham gia gv nhiệt tình ủng hộ. b. Khó khăn Trường THCS Đông Thọ là phường đông dân, dân cư đủ các thành phần song số học tham gia học. Hơn nữa phần lớn gia đình các em đều làm nghề nông tiểu thương, nên các em học sinh cũng phải sớm giúp đỡ bố mẹ việc nhà nên có ít thời gian dành cho việc học tập, tìm hiểu để mở rộng nâng cao vốn kiến thức. Nhận thức của một số phụ huynh về việc học tập của con em mình cũng chưa được đầy đủ và sâu sắc... Vậy nên để lựa chọn và bồi dưỡng được một đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ Văn cả về số lượng và chất lượng là khó có thể thực hiện trong một sớm, một chiều. Bên cạnh đó rất ít học sinh có năng khiếu văn chương (một khả năng thiên phú), mà phần lớn là phải giúp cho học sinh có được năng lực văn học nên cũng ít đạt được những thành tích vượt trội. Càng ngày xu hướng xem nhẹ các bộ môn khoa học xã hội càng được thể hiện rõ trong đó có bộ môn ngữ văn. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt sau mỗi kì thi chúng ta cũng thấy được phần nào thực tế đáng buồn về các bài làm của học sinh về mônn học lung túng,cô giáo chưa thành thạo trong việc tìm những phương pháp dạy mới, vì thời gian đầu tư còn nhiều hạn chế “ trước thuận lợi khó khăn trên tôi tiên phong đi đầu ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học và chỉ đạo GV tham gia, gần 10 năm với kinh nghiệm đem lại kết quả đáng khích lệ hiệu quả cao trong giảng dạy các bộ môn ngoài văn cả toán học lí ,,,nhưng môn văn tôi áp dụng rộng rãi và triệt để nhất. 3. Cơ sở khoa học của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học 3.1. Khái niệm bản đồ tư duy: Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì: “Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ phát triển”. 3.2. Vai trò của bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học BĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi chương BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Hình ảnh lớp học sử dụng sơ đồ tư duy của học sinh THCS BĐTD giúp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình. BĐTD giúp học sinh ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. BĐTD có thể sử dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy. Với những trường có điều kiện công nghệ thông tin tốt, có thể cài đặt phần mềm Mindmap cho giáo viên, học sinh sử dụng, bằng cách vào trang wed www.dowload.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về miễn phí ConceptDraw MINMAD 5 professional, việc sử dụng phần mềm này khá đơn giản. Ngoài ra ta có thể tìm mua cài đặt, sử dụng phần mềm Buzan. 4. Giải pháp khi sử dụng sơ đồ tư duy 4.1 Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ để giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức tổng hợp về bài học: Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học- trung tâm bản đồ. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên bản đồ. Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy còn giúp cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài, tức là tìm ra mạch lôgic của bài học. Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yê u cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng. Ví dụ: Khi học bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ GV cho từ khoá “So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ (nhánh con cấp 2, cấp 3), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận, qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. (Sơ đồ minh hoạ) 4.2. Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm kiếm kiến thức của học sinh: Với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Bước quan trọng nhất là giáo viên giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm bản đồ - trọng tâm bài học. Sau đó theo nguyên lí bản đồ tư duy là ý nọ gợi ý kia dần dần giúp học sinh khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình ảnh chính xác nhất. Khi các nhánh lớn được xây dựng giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ biết cách tự mình vận động, tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. 4.3. Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ để củng cố, khái quát bài học của học sinh: Sau mỗi tiết học bao giờ cũng có phần củng cố, nhắc lại kiến thức trọng tâm. Với cách học truyền thống, học sinh ghi chép và thực hiện kiến thức theo trật tự tuyến tính nên khả năng nhớ kiến thức thường ít hơn < 50%dung lượng bài. Sử dụng bản đồ tư duy giúp các em khắc phục được hạn chế đó. Sau mỗi giờ học, khi cần củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn vào bản đồ tư duy có thể tái hiện được 80%-90% kiến thức bài học.. Ví dụ: Khi dạy phần từ loại Tiếng Việt, cho học sinh vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có 1 tập BĐTD về các từ loại Tiếng Việt: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, quan hệ từ, trợ từ, thán từ. Lên đến lớp 9, trong bài “Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại Tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có. Sau khi có một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD, sẽ cho một học sinh khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh khác và ghi thêm các chú thích rồi thảo luậ n chung trước lớp để hoàn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em. ( Sơ đồ minh hoạ) 4.4. Cách thức sử dụng bản đồ tư duy trong giờ dạy môn Ngữ văn Giáo viên có thể linh hoạt vận dụng nhiều cách sử dụng BĐTD trong giờ dạy Ngữ văn: Tuỳ theo nội dung đơn vị kiến thức ở từng bài học để lựa chọn kiểu BĐTD, cách thức thực hiện sao cho thích hợp ( có thể hướng dẫn cho học sinh làm trên lớp hoặc hướng dẫn học sinh về nhà làm ). Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD như sau: Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV. Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Lưu ý: - BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần). * Ví dụ minh họa về một số tiết dạy sử dụng bản đồ tư duy Tiết 38: Ôn tập truyện kí Việt Nam ( Lớp 8 ) Đây là một bài dạy tổng kết các đơn vị kiến thức có sức khái quát lớn về các văn bản truyện kí hiện đại Việt Nam (1930 – 1945) sau khi học sinh đã được học từng văn bản cụ thể. Nó có vị trí quan trọng giúp cho học sinh có được sự nhận thức tổng quát toàn bộ những kiến thức khái quát nhất, tiêu biểu nhất về một một giai đoạn, một nền văn học dân tộc, một tác phẩm văn học. Tuy nhiên, việc dạy các dạng bài này cũng gặp nhiều khó khăn. Dung lượng kiến thức trong tiết học rất dài và có độ khái quát rất lớn. Để giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người học đều phải tập trung cao độ, chuẩn bị kĩ nếu không sẽ không đủ thời gian. Trong khi đó, kiến thức phần này lại khó và rộng, nên không phải người học nào cũng tạo cho mình một tâm lí thoải mái, hưng phấn khi học, thậm chí còn thấy mệt mỏi, kém hứng thú. Vì thế việc sử dụng BĐTD trong những giờ dạy như thế này là rất tiện lợi và có hiệu quả. Học sinh hứng thú, say mê làm việc và có thể dễ dàng nhớ được hệ thống kiến thức một cách nhanh nhất và lâu nhất. Tiến trình tổ chức giờ dạy như sau: I. Chuẩn bị trước ở nhà: Giáo viên: Soạn bài trên giáo án PowerPoint, vẽ BĐTD theo từng nội dung kiến thức. Học sinh: Soạn bài (trả lời các câu hỏi, bài tập ở SGK), chuẩn bị sẵn giấy trắng A4 hoặc A3, bút chì đen, bút chì màu, tẩy II. Thực hành trên lớp: Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm với gợi ý của GV. Nhóm 1: Vẽ BĐTD tổng hợp điểm giống nhau và khác nhau về nội dung và hình thức nghệ thuật của các văn bản truyện kí hiện đại Việt Nam được học (theo nội dung câu hỏi 2 – SGK) Nhóm 2: Vẽ BĐTD tổng hợp các đơn vị kiến thức về văn bản “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh (theo nội dung câu hỏi 1 – SGK) Nhóm 3: Vẽ BĐTD tổng hợp các đơn vị kiến thức về văn bản “Trong lòng mẹ”(Trích “Những ngày thơ ấu” của nhà văn Nguyên Hồng) (theo nội dung câu hỏi 1 – SGK) Nhóm 4: Vẽ BĐTD tổng hợp các đơn vị kiến thức về văn bản “Tức nước vỡ bờ”(Trích “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố) (theo nội dung câu hỏi 1 – SGK) Nhóm 5: Vẽ BĐTD tổng hợp các đơn vị kiến thức về văn bản “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao (theo nội dung câu hỏi 1 – SGK) Nhóm 6: Vẽ BĐTD khái quát đặc điểm của các nhân vật: bé Hồng, chị Dậu, lão Hạc. Hoạt động 2: Đại diện các nhóm lên trình bày theo từng nội dung kiến thức bài học. ( Trình chiếu qua Camera vật thể ) -> Sau mỗi phần trình bày của mỗi nhóm, GV cho số HS còn lại trong lớp nhận xét, bổ sung (nếu có) Hoat động 3: GV sử dụng BĐTD chuẩn mà mình đã lập trình chiếu trên màn hình để củng cố kiến thức. Hoạt động 4: Hướng dẫn HS luyện tập Hoạt động 5: Dặn dò HS về nhà tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các BĐTD hệ thống kiến thức để ôn tập. Hệ thống các BĐTD sử dụng trong bài dạy . Hệ thống những văn bản truyện kí Việt Nam được học. Sơ đồ tổng hợp các văn bản được học * Hệ thống kiến thức văn bản “Trong long mẹ Khái quát đặc điểm nhân vật trong các văn bản được học Tiết 59: Ôn luyện dấu câu ( Lớp 8 ) Đây là bài dạy tổng kết toàn bộ dấu câu đã được học ở lớp 6, lớp 7, lớp 8. Kiến thức khái quát tổng hợp yêu cầu học sin
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_chi_dao_huong_dan_hoc_sinh_su_dung_s.doc