SKKN Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 thông qua môn ngữ văn

SKKN Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 thông qua môn ngữ văn

Mục tiêu của giáo dục việt nam là đào tạo ra con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. (Luật giáo dục năm 2005)

 Cùng với những bước tiến tích cực về mọi mặt là những tồn tại đầy nhức nhối mà bất kì một người có nhân cách, lương tâm nào cũng đều phải trăn trở. Một trong những tình trạng đáng buồn của ngành giáo dục của chúng ta hiện nay là tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, tham gia vào các tệ nạn xã hội xuất hiện ngày một nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có lẽ, nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do các em thiếu kỹ năng sống.

Rèn kỹ năng sống cho học sinh giúp cho các em thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được những vấn đề thiết thực trong cuộc sống cũng như sức khỏe, tệ nạn xã hội .để cho các em có thể tự tin chủ động tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, tự học tập, tự rèn luyện để vươn lên trở thành một công dân có ích cho xã hội.

 

doc 22 trang thuychi01 10401
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 thông qua môn ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu của giáo dục việt nam là đào tạo ra con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. (Luật giáo dục năm 2005)
 Cùng với những bước tiến tích cực về mọi mặt là những tồn tại đầy nhức nhối mà bất kì một người có nhân cách, lương tâm nào cũng đều phải trăn trở. Một trong những tình trạng đáng buồn của ngành giáo dục của chúng ta hiện nay là tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, tham gia vào các tệ nạn xã hộixuất hiện ngày một nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có lẽ, nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do các em thiếu kỹ năng sống.
Rèn kỹ năng sống cho học sinh giúp cho các em thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được những vấn đề thiết thực trong cuộc sống cũng như sức khỏe, tệ nạn xã hội .để cho các em có thể tự tin chủ động tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, tự học tập, tự rèn luyện để vươn lên trở thành một công dân có ích cho xã hội.
Rèn kỹ năng sống không phải là vấn đề mới mẻ nhưng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh một cách hiệu quả cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đặc biệt là học sinh khối 12 Trung tâm GDNN-GDTX . Đây là lứa tuổi đang ở ngưỡng cửa của một công dân trưởng thành, độ tuổi không còn là trẻ con nhưng cũng chưa thành người lớn, mọi suy nghĩ và hành động còn nông nổi, cảm tính; giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá nhưng còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, mua chuộc, kích động Là năm cuối cùng của cấp trung học, các em phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, phải chịu nhiều áp lựcVì vậy, nếu thiếu những kỹ năng sống cơ bản, học sinh lớp 12 dễ mắc những sai lầm nghiêm trọng như thực tế chúng ta đã chứng kiến không ít trường hợp đau lòng: có học sinh khá - giỏi vì ăn chơi đua đòi nên đã xa ngã, có học sinh lớp cuối cấp tìm lẽ sống của mình ở trò chơi điện tửHơn nữa, đã là học sinh lớp 12 thì chỉ cần một thời gian ngắn nữa là đa số các em phải bước vào cuộc sống tự lập, phải tự mình ứng phó với vô vàn những tình huống khác nhau của cuộc sống phức tạp và ít có sự can thiệp, giúp đỡ của người thân trong gia đình. Vì thế giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh lớp 12 là rất cần thiết hơn bao giờ hết.
Môn ngữ văn trong nhà trường THPT là môn học có nhiều ưu thế trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và cho học sinh lớp 12 nói riêng.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay vẫn còn có nhiều em thiếu tự tin, thiếu tự lập, sống ích kỉ, luôn tỏ ra rụt rè trong giao tiếp hoặc không biết cách xử lí tình huống khi gặp phải khó khăn, thậm chí có cả nạn bạo lực học đường thường xảy ra. Đây cũng là nỗi băn khoăn, lo lắng của các bậc phụ huynh trước tình trạng đó của con em mình. Về giáo viên, vẫn có một số giáo viên coi giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là thuộc các môn: GDCD, môn Lịch sử, môn Địa líhay một số công tác khác như: công tác Đoàn , công tác chủ nhiệm mà chưa thấy hết vai trò, vị trí của môn Ngữ văn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em. Trong giờ học, giáo viên còn nặng về nâng cao kiến thức, rèn luyện các kỹ năng phân tích,cảm thụ chứ chưa chú trọng đến giáo dục kỹ năng sống. Vì thế chưa phát huy hết vai trò, khả năng giáo dục kỹ năng sống của môn Ngữ văn. 
Là một giáo viên trực tiếp dạy môn Ngữ văn, tôi thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Ngữ văn thực sự là một vấn đề quan trọng và cần thiết, cần phải có một số biện pháp để phát huy vai trò, chức năng của môn Ngữ văn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Vì thế, tôi tập trung vào vấn đề: “Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 thông qua môn ngữ văn”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này tôi đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân đã làm để rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 trung tâm TTGDNN- GDTX với mục đích trang bị cho các những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế để trải nghiệm trong đời sống. 
Nhằm trang bị cho các em những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp, hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, trong các tình huống và hoạt động hàng ngày, đồng thời tạo cơ hội thuận lợi để các em thực hiện tốt quyền và bổn phận của mình
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 12A, 12B trường TTGDNN - GDTX Cẩm Thủy.
- Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường TTGDNN - GDTX Cẩm Thủy Thông qua môn Ngữ văn với một số truyện ngắn lớp 12.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc nghiên cứu tài liệu, tổng hợp để hoàn thành đơn vị kiến thức.
+ Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng Ngữ văn 12 tập II.
+ Tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp kiểm tra.
- So sánh đối chiếu kết quả.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
1. Định nghĩa chung về kỹ năng sống:
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống, nhưng nhìn chung các quan niệm đều thống nhất ở chỗ thấy được bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản lí bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩỹnăng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Ở nước ta, kỹ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:
- Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kỹ năng sống cụ thể như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin.
- Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp, thương lượng, bày tỏ cảm thông, hợp tác.
- Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm và xử lí thông tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo
Cũng cần phải nói thêm rằng kỹ năng sống của con người không phải tự nhiên mà có được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn luyện lâu dài trong cuộc sống.
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 12.
Ngày nay, những ai quan tâm đến giáo dục đều hiểu rằng: giáo dục thế hệ trẻ không chỉ chú trọng dạy chữ mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ dạy người con người không chỉ cần có tri thức mà phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có ích. Muốn như thế con người nhất thiết phải có kỹ năng sống. Vì người có kỹ năng sống mới luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách tích cực và phù hợp; luôn lạc quan, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh. Có thể nói: kỹ năng sống là “chiếc chìa khóa vạn năng” giúp con người từng bước khẳng định bản ngã của chính mình. Hơn thế, người có kỹ năng sống luôn có hành vi tích cực để góp phần xây dựng và làm giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho cuộc sống tươi sáng và văn minh hơn.
Tuổi trẻ nói chung, đối tượng học sinh lớp 12 TTGDNN –GDTX nói riêng là những chủ nhân tương lai của đất nước, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Do đó đất nước khó có thể phát triển theo chiều hướng tích cực như mong muốn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.Vì vậy
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 khối TTGDTX là rất cần thiết.
3. Đặc trưng của bộ môn ngữ văn lớp 12 và những ưu thế của nó trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học với tư cách là môn khoa học xã hội và nhân văn, nó không chỉ giúp học sinh hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch sử, con người mà còn giúp mỗi người tự hiểu hơn về chính mình; với tính chất là môn học công cụ, nó giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để tư duy, để học tập, để giao tiếp, để nhận thức; với đặc trưng là môn học về giáo dục thẩm mĩ, nó bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Chương trình ngữ văn lớp 12 là phần văn học hiện đại xen kẽ với các bài học về tiếng Việt và làm văn, phù hợp với ngôn ngữ cũng như kiểu tư duy, tình cảm hiện đại, rất thiết thực cho việc giáo dục những kiến thức và các kỹ năng sống của con người hiện đại.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng chung:
Tất cả những ai có trách nhiệm với tương lai đất nước, với thế hệ trẻ đều nhận thấy rằng: giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi học sinh đặc biệt là học sinh cuối cấp khối GDTX là vô cùng cấp thiết.
Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2005 đã xác định lại mục tiêu của giáo dục Việt Nam: chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển CNH-HĐH đất nước. Thể hiện mục tiêu của giáo dục thế kỉ XXI: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống. Chủ trương chung của Bộ giáo dục là từ năm học 2009-2010 đưa vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vào tích hợp trong tất cả các môn học từ cấp mầm non cho đến lớp 12.
Nhưng có lẽ đây là lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ và với nhiều nguyên nhân khác nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện kỹ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất đồng bộ trong hệ thống giáo dục phổ thông của cả nước.
2. Đối với giáo viên:
Anh chị em giáo viên Trung tâm và cả một số Trung tâm khác, khi được hỏi tới vấn đề: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thế nào để đạt hiệu quả? Đa số chỉ cười lảng tránh hoặc thú thật: “đối phó thôi, thời gian đâu mà tích hợp”. Có người chân thành và cởi mở hơn thì tâm sự: chủ trương chung là phải tích hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh nhưng thực tế chẳng có gì là cụ thể, thậm chí làm cho giờ học phức tạp và rối rắm hơn. Bản thân tôi, khi mới tiếp cận với vấn đề cũng có những cảm nhận như thế. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, học sinh chẳng mấy thiết tha với môn văn nên việc “tích hợp” càng khó khăn hơn. Một điều đáng nói nữa là đa số phụ huynh, học sinh lớp 12, ngay cả phần lớn giáo viên dạy khối học này cũng đều xác định mục tiêu quan trọng nhất của việc học cho lớp 12 là “học để thi Tốt nghiệp” chứ không phải là “học để làm người”. Xác định mục tiêu như thế nên kiến thức phải luôn đặt ở thế “thượng phong”, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh 12 chỉ mang tính chất “tự phát” và “tùy hứng” chứ không mang tính chiến lược nên hiệu quả chưa cao.
3. Đối với học sinh:
Đất nước ngày càng phát triển thì các phương tiện thông tin đại chúng càng phong phú,nhất là các trò chơi điện tử luôn đáp ứng đúng thị hiếu của hoc sinh .Vì vậy lơ là, ham chơi nhất là bỏ học đi chơi game
Trong một lớp học sinh không đồng đều có em chú ý nghe thầy cô giảng bài,có nhiều em lại không chú ý dẫn đến chán nản , buông xuôi việc học thậm chí bỏ đi chơi. Bên cạnh đó có những học sinh chỉ thụ động nghe ghi chép những gì giáo viên nói mà không tham gia vào việc tìm hiểu bài giảng Nhất là đối với học sinh Trung Tâm Giáo dục nghề nghiệp giáo dục Thường xuyên Cẩm Thủy ,chất lượng đầu vào không cao phần lớn các em không đậu vào các trường phổ thông nên mới nạp đơn xin vào Trung tâm để học
Hàng tháng, trung tâm chúng tôi đều phải tổ chức những buổi họp kỉ luật để xử lí những vụ đánh nhau mà đôi khi vì những lí do chẳng đâu vào đâu, các em cũng “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau để lại hậu quả nghiêm trọng đối với từng cá nhân học sinh, với gia đình, với nhà trường, với cả xã hội. Học sinh lớp 12 mà chỉ cần một ánh mắt, một câu nói đùa của bạn đã có thể gây ra một vụ ẩu đả ra trò. Đó chẳng phải do các em thiếu kỹ năng làm chủ cảm cảm xúc, kĩ năng ra quyết định phù hợp đó sao? Mỗi ngày, các giáo viên chủ nhiệm đều phải xử lí tại lớp mình bao nhiêu trường hợp nghỉ học để đi chơi game, bao nhiêu trường hợp vô lễ với thầy cô giáoXử lí nhiều, kỉ luật nhiều, thậm chí có những trường hợp kỉ luật nặng (đuổi học) nhưng tình hình vẫn không thay đổi được là bao. Trong trường có biết bao nhiêu em rơi vào tình trạng “ăn không nên đọi, nói không nên lời”, khi được thầy cô giáo chỉ định trả lời một câu hỏi thì ấp úng, lúng túng, không thể diễn đạt nổi Vấn đề cốt lõi của cái gốc thực trạng đau lòng ấy chính là do các em thiếu những kĩ năng sống quan trọng: kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợThiết nghĩ, không thể khắc phục được thực trạng đáng buồn ấy bằng kiểu “học ” như bây giờ mà phải chú tâm thỏa đáng đến việc rèn luyện cho các em những kỹ năng sống để “làm Người” .Đây cũng là lý do để tôi chọn đề tài này. Trong pham vi của sáng kiến kinh nghiệm , chúng tôi mạnh dạn đưa ra ý tưởng của mình để các đồng nghiệp tham khảo và ứng dụng trong việc giảng dạy của mình để đạt kết quả cao nhất.
2.3. Một số giải pháp cụ thể .
Tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống:
1.1. Những tình huống có tính chất ứng dụng:	
Thực tế, kỹ năng sống không thể chỉ được giới thiệu và giảng giải bằng lí thuyết. Bởi “lí thuyết suông” có thể tạo ra sự nhàm chán , khiến các em mất niềm tin vào lời thầy cô giảng. Hơn nữa, chỉ lí thuyết không chắc hẳn các em sẽ rất chóng quên. 
Ưu thế nổi bật nhất của việc tạo ra được những tình huống có ý nghĩa vận dụng trong quá trình dạy học văn:
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học, để văn học gắn với đời sống chứ không phải là thế giới chỉ có trong sách vở. 
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong quá trình học. 
- Đặc biệt là sẽ rèn luyện, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông. 
- Ngoài ra, giáo viên, trong vai trò của người dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía học sinh để làm phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu.
1.2. Cách thức thực hiện:
 Vì vậy, trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình huống có vấn đề mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải quyết. Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân sau đó được thảo luận để đi đến một cách giải quyết tốt nhất và có hiệu quả nhất.
	Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống HIV/ AIDS” của Cô-phi-a-Nan (SGK ngữ văn 12 TậpI NXB Giáo dục) [1]
 Cô sẽ đặt ra tình huống: Nếu em có một người bạn thân bị nhiễm HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
(lưu ý: hãy trả lời bằng chính suy nghĩ thật và tình cảm thật của mình)
(Hình ảnh học sinh tham gia tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS)
Sau khi đưa ra tình huống, Cô tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề trên một tờ phiếu học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng mình. Cô chọn một số ý kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ định bất kì), gọi một học sinh khác đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng nghe, cùng thảo luận, để thống nhất cách giải quyết tốt nhất. Với tình huống trên, học sinh có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau, chẳng hạn:
- Các em sẽ tìm cách trốn tránh, xa lánh, không chơi với bạn nữa vì sợ bị lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách nhất định khi tiếp xúc với bạn ấy. 
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có thể để bạn không rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là lúc bạn cần mình nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất.
Sau khi cho các em thảo luận, Cô định hướng chung để thống nhất cách giải quyết: Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm nhưng tất nhiên phải cẩn thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kĩ để có kiến thức thật vững vàng về căn bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến tâm lí, tình cảm của người bạn để chăm sóc bạn hiệu quả nhất và an toàn nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài (SGK ngữ văn 12 Tập II-NXB Giáo dục) [2]
 Chi tiết: A Phủ đánh A Sử trong lễ hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế mà phá đám cuộc chơi. Cô sẽ đặt ra tình huống vận dụng: Giả sử, bạn là A Phủ, trong hoàn cảnh trên bạn sẽ xử sự thế nào? Học sinh cũng sẽ có nhiều cách xử trí khác nhau như:
(Hình ảnh tượng trưng A phủ và A Sử trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy thế làm càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương không nên phá rối như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa thuận giữa hai bên để cuộc vui vẫn được tiếp diễn, không có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy quyền thế như A Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng lại không chịu tội một mình như A Phủ.
Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ phá đám của “kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện với nhau, tìm điểm yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối phương phải suy nghĩ lại. Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của đối phương để sự tự phụ của hắn được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không xảy ra.
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này thường tạo cho học sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là người trong cuộc, cần phải thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình huống đó, học sinh dần dần hình thành kĩ năng giải quyết các vấn đề và điều chỉnh hành vi theo hướng hợp lí.
2. Những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học: 
2.1. Tầm quan trọng của hoạt động đối thoại trong dạy học và rèn luyện kĩ năng sống :
 Hoạt động đối thoại có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhất là học sinh lớp 12: hoạt động đối thoại có tác dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn trong quá trình học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình thảo luận. Qua hoạt động đối thoại,học sinh rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập thể, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo của các em.
Giáo viên tổ chức cho học sinh đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện phát triển năng lực cá nhân cho mỗi học sinh mà còn phát huy vai trò hỗ trợ của tập thể trong học tập khiến cho những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn nhận đa dạng, phong phú, toàn diện hơn. Hơn nữa, Khi học sinh được tự do phát biểu một cách độc lập, sáng tạo theo cảm nhận cá nhân, giáo viên sẽ có cơ sở và điều kiện để phát huy vai trò chủ thể học sinh trong giờ học, lớp học trở nên sinh động, và việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, sâu sắc hơn. Giáo viên đối thoại với học sinh và ngược lại.
Trong các trung tâm hiện nay học sinh không chịu xây dựng, phát biểu bài trở nên ngày càng nhiều . Việc ngại hỏi, ngại nói, ngại tranh luận trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh GDTX đã và đang để lại những hậu quả bất lợi cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học, trong đó người chịu thiệt thòi nhiều nhất chính là các em; đã khá nhiều lần chúng tôi và các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về việc chán nản trước hiện tượng lớp học này, lớp học kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và thầy cô rơi vào hoàn cảnh: “miệng liền tai, nói lấy, nghe lấy rồi tự trả lời lấy” những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nả

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_ren_luyen_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_lo.doc