SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 nâng cao chất lượng viết văn miêu tả

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 nâng cao chất lượng viết văn miêu tả

 Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học (được xem là môn học “công cụ”). Nó giúp các em hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, nghe, nói, viết). Các em có đọc thông, viết thạo thì mới hiểu được nội dung văn bản, mới nắm được thông tin giải quyết được những vấn đề mà văn bản đã nêu ra; Khi các em học tốt môn Tiếng Việt thì các em có khả năng học tốt được các môn học khác.

 Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng :

 - Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.

 - Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa và văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình cảm yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người.

 Tiếng việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng việt t¹o điều kiện cơ sở cho học sinh học tốt tất cả các bộ môn, là công cụ để giao tiếp và tư duy, là hành trang trong những năm tháng học tập ở nhà trường và cũng như trong suốt cuộc đời. Song trong môn Tiếng Việt thì phân môn chiếm nhiều thời gian nhất là Tập làm văn lớp 4, 5 đặc biệt là thể loại văn miêu tả. Văn miêu tả là một trong những nội dung chủ yếu của Tập làm văn. Đề tài văn miêu tả vô cùng phong phú, đó là thế giới xung quanh ta với muôn vàn đ¬ường nét, âm thanh, màu sắc, h¬ương vị. mà ngư¬ời miêu tả cảm nhận được.

 

doc 20 trang thuychi01 8395
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 nâng cao chất lượng viết văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
 Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học (được xem là môn học “công cụ”). Nó giúp các em hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, nghe, nói, viết). Các em có đọc thông, viết thạo thì mới hiểu được nội dung văn bản, mới nắm được thông tin giải quyết được những vấn đề mà văn bản đã nêu ra; Khi các em học tốt môn Tiếng Việt thì các em có khả năng học tốt được các môn học khác.
 Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng :
 - Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.
 - Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa và văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình cảm yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người. 
 Tiếng việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng việt t¹o điều kiện cơ sở cho học sinh học tốt tất cả các bộ môn, là công cụ để giao tiếp và tư duy, là hành trang trong những năm tháng học tập ở nhà trường và cũng như trong suốt cuộc đời. Song trong môn Tiếng Việt thì phân môn chiếm nhiều thời gian nhất là Tập làm văn lớp 4, 5 đặc biệt là thể loại văn miêu tả. Văn miêu tả là một trong những nội dung chủ yếu của Tập làm văn. Đề tài văn miêu tả vô cùng phong phú, đó là thế giới xung quanh ta với muôn vàn đường nét, âm thanh, màu sắc, hương vị... mà người miêu tả cảm nhận được. 
 Bài tập làm văn nói chung và bài tập làm văn miêu tả nói riêng ở lớp 4, là sản phẩm của sự vận dụng tổng hợp nhiều kiến thức, kĩ năng tiếp nhận trong quá trình học tập, từ đó nâng cao năng lực tư duy, giáo dục tình cảm, mỹ cảm cho học sinh. Kết quả cuối cùng của dạy Tập làm văn là hiệu quả của những bài văn. Vậy làm thế nào để giúp các em yêu thích môn văn, Tập làm văn?
 Muốn có bài văn miêu tả hay cần có nhiều yếu tố như: Phải biết quan sát tinh tường, giàu sức tưởng tượng, so sánh, nhận xét. Và một yếu tố quan trọng, quyết định đến bài văn hay, hấp dẫn người đọc, người nghe, giúp người đọc, người nghe cảm nhận được đối tượng mình miêu tả là phải biết sử dụng tư duy để miêu tả hình ảnh sự vật một cách sinh động gợi hình, gợi cảm như chúng đang hoạt động, đang nảy nở, đang sinh sôi và phát triển.
 Vì thế, muốn dạy có hiệu quả các tiết tập làm văn ở Tiểu học nói chung và văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng. Chúng ta cần có phương pháp dạy học phù hợp theo nội dung, yêu cầu của từng bài, nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát, tư duy, sáng tạo và lột tả được vẻ đẹp nội dung mang tính hiện thực. Giúp các em tự tin hơn với khả năng quan sát, nhìn nhận của mình. Từ đó giúp cho các em kỹ năng làm bài văn miêu tả tốt. Đó cũng chính là mục tiêu của mỗi giáo viên trong dạy học văn miêu tả. Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 nâng cao chất lượng viết văn miêu tả.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
2. 1. Giúp học sinh lớp 4: 
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5 và các lớp trên.
2. 2. Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học; nâng cao chất lượng Tập làm văn nói riêng và chất lượng môn Tiếng Việt nói chung.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
 - Nghiên cứu về văn miêu tả, phương pháp dạy văn miêu tả. Tìm các giải pháp giúp học sinh lớp 4 nâng cao chất lượng viết văn miêu tả.
 - Giáo viên, học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngư Lộc 2 - Hậu Lộc - Thanh Hóa.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
* Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu nội dung chương trình Tập làm văn 4 mạch kiến thức: Dạy viết văn miêu tả.
* Phương pháp quan sát sư phạm.
- Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy- học phân môn Tập làm văn trong trường Tiểu học.
- So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả với những năm học trước.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập làm văn của học sinh lớp mình, học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của giáo viên giảng dạy, quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu tả khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết văn miêu tả của học sinh. 
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán học và phương pháp tổng hợp số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của từng học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân. 
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
 Văn miêu tả là một trong những kiểu văn bản rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo văn chương. Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển, miêu tả là " lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra". Trong văn miêu tả người ta không đưa ra những lời nhận xét chung chung, những lời đánh giá trừu tượng về sự vật như: cái cặp này đẹp, cái bàn này hỏng...văn miêu tả vẽ ra sự vật, sự việc hiện tượng, con người...bằng ngôn ngữ một cách sinh động cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang xem tận mắt, bắt tận tay. Đây là loại văn bản có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng đó, những trang văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. 
 Chính vì thế mà văn miêu tả được đưa vào chương trình tiểu học từ rất sớm, là thể loại rất quen thuộc đối với học sinh. Ngay từ lớp 2 khi tập quan sát để trả lời câu hỏi; các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Học văn miêu tả góp phần nuôi dưỡng mối quan hệ và tạo nên sự quan tâm của các em về thế giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên, góp phần giáo dục tình cảm thẫm mĩ, lòng yêu cái đẹp và góp phần phát triển ngôn ngữ ở trẻ...Học văn miêu tả, học sinh có thêm điều kiện tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội, để khêu gợi ra những tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ cao thượng đẹp đẽ...Xu- khôm-lin -xki nhà giáo dục Xô viết cho rằng việc học sinh tiếp xúc với thiên nhiên, việc dạy các em miêu tả cảnh vật nhìn thấy, nghe thấy...là con đường có hiệu quả nhất để giáo dục các em phát triển ngôn ngữ.
 Tuy nhiên, các đề bài Tập làm văn ở sách giáo khoa và vở bài tập được chọn lọc rất kĩ càng, nội dung yêu cầu gần gũi và sát thực với đời sống, học tập, lao động và sinh hoạt của các em. Các đề bài tập làm văn được sắp xếp có hệ thống (theo dạng mở). Để làm tốt được điều đó tôi đã đi nghiên cứu thực trạng.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
 Qua quá trình nghiên cứu giảng dạy, dự giờ thăm lớp, qua việc chấm bài của học sinh tôi thấy có một số thực trạng như sau:
 1.Về phía giáo viên:
 - Hầu hết, khi dạy văn miêu tả lớp 4 - 5, các giáo viên chỉ có con đường duy nhất là hình thành hiểu biết về lí thuyết thể loại văn, các kỹ năng làm bài là qua phân tích bài văn mẫu. Thậm chí để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng bài kiểm tra, thi cử, nhiều giáo viên cho học sinh đọc thuộc một số bài mẫu để khi gặp một đầu bài tương tự, các em cứ thế chép ra. Giáo viên chưa thực sự rèn cho học sinh các kỹ năng làm bài.
 - Nhiều giáo viên còn lệ thuộc quá nhiều vào sách giáo khoa và sách giáo viên nên rất ít sự sáng tạo dẫn đến hạn chế khả năng tiếp thu và sáng tạo của học sinh.
 - Giáo viên xem nhẹ khâu tìm hiểu, phân tích đề bài, chưa tạo điều kiện cho học sinh được quan sát thực tế, việc hướng dẫn học sinh quan sát còn ít, còn xem nhẹ việc quan sát. Giáo viên chưa biết giúp học sinh sử dụng biện pháp nghệ thuật, sử dụng những từ ngữ hay vào viết văn miêu tả.
 - Giáo viên ít quan tâm đến việc chấm chữa bài, nhận xét, sửa chữa cho học sinh sau khi chấm bài; chỉ qua loa những lỗi sai của học sinh. Nhiều giáo viên còn quan niệm trả bài chỉ cần cho học sinh biết điểm.
 2. Về phía học sinh:
 - Do hầu hết bài viết của các em thường mang tính sao chép, lệ thuộc vào thầy, vào bạn dẫn đến kết quả là trí tưởng tượng, khả năng quan sát, tổng hợp của các em còn nhiều hạn chế. 
 - Học sinh chưa chịu khó đọc kĩ đề bài, từ đó chưa nắm vững yêu cầu của đề, làm lạc đề bài yêu cầu. Không biết được nội dung yêu cầu của mỗi tiết dạy, của mỗi bài học. Ngay từ tiết đầu tiên các em đã viết thành một bài văn đầy đủ.
 - Học sinh chưa biết cách quan sát, chưa biết sử dụng nhiều giác quan khi quan sát và ghi chép lại những điều quan sát được, học sinh chưa biết cách tổng hợp những điều quan sát được để hoàn thiện thành đoạn văn hoàn chỉnh. 
 - Học sinh chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, so sánh để viết văn, sự liên tưởng còn nhiều hạn chế, vốn từ nghèo nàn, chưa biết chắt lọc ý, việc sử dụng các từ gợi tả, gợi cảm ít được chú ý.
 - Các em chưa nắm vững cách làm các bài văn miêu tả, còn yếu về kĩ năng xây dựng bố cục. 
 Ngay từ đầu năm học, tôi đã thực nghiệm ở lớp 4C với đề bài cụ thể như sau: " Em hãy tả một con vật mà em yêu thích ". Kết quả đạt được như sau:
Bảng 1: Kết quả điểm qua bài khảo sát:
Tổng
 số
học
sinh
 Điểm 9-10
 Điểm 7-8
Điểm 5-6
 Điểm dưới 5
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
29
2
6,9%
8
27,6%
14
48,3%
5
17,2%
 - Nhìn vào kết quả thực nghiệm tôi thấy, tỉ lệ bài kiểm tra đạt điểm 9-10 còn thấp. Số bài kiểm tra đạt 5-6 và dưới 5 còn cao. Xuất phát từ những thực trạng đáng lo ngại ở trên, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm ra các giải pháp rèn kĩ năng miêu tả và nâng cao chất lượng dạy - học văn miêu tả. 
 - Ngoài ra, tôi kiểm tra về học tập đối với phân môn Tập làm văn của lớp tôi và phân loại chất lượng theo yêu cầu của môn học như sau:
Bảng 2: Kết quả nhận xét của giáo viên đầu năm:
Tổng số HS
Kết quả đạt được của học sinh
 Viết đúng chính tả
Dùng từ chính xác
Câu văn diễn đạt gãy gọn, rõ ràng
Sắp xếp ý phù hợp, có hình ảnh
Biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
Bố cục chặt chẽ
29
15/29
8/29
8/29
8/29
2/29
10/29
 Kết quả khảo sát trên, cho ta thấy một số học sinh chưa thực hiện được các yêu cầu của một bài văn như:
 + Bố cục bài viết không rõ ràng.
 + Sắp xếp ý còn lộn xộn, diễn đạt câu văn chưa sáng sủa, dùng từ thiếu chính xác.
 + Bài văn nghèo ý, sơ sài.
 + Mắc nhiều lỗi chính tả, sử dụng dấu câu chưa phù hợp.
 Trước thực trạng này tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và sau đây là các giải pháp mà bản thân đã thực hiện có hiệu quả.
3. GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIÚP HỌC SINH LỚP 4 VIẾT VĂN MIÊU TẢ
 3. 1. Giải pháp 1. Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu đề bài và thực hiện lần lượt nội dung từng bài.
 3.1.1. Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu đề bài.
	- Việc tìm hiểu đề bài có ý nghĩa quan trọng. Đây là bước định hướng cho quá trình làm bài. Định hướng sai hay đúng sẽ quyết định làm bài sai hay đúng.
	- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề yêu cầu, tránh nhầm lẫn, lạc 
đề khi làm bài.
 Ví dụ: Tả một đồ vật mà em yêu thích. Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề theo các bước như sau:
 + Trước tiên tôi yêu cầu học sinh đọc đề bài. ( 3 - 4 học sinh đọc đề bài ). 
 Sau đó tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài.
 + Đề bài thuộc thể loại văn gì? ( văn miêu tả )
 + Đề bài yêu cầu tả gì? ( tả đồ vật )
 + Giáo viên gạch chân từ:" tả, đồ vật, yêu thích".
 Hoặc với đề bài: Em hãy tả một con vật mà em yêu thích.
 + Với đề bài trên tôi hướng dẫn theo các bước như sau:
 + Trước tiên tôi yêu cầu học sinh đọc đề bài. ( 3 - 4 học sinh đọc đề bài ). 
Sau đó tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài.
 + Đề bài thuộc thể loại văn gì? ( văn miêu tả )
 + Đề bài yêu cầu tả gì? ( tả con vật )
 +" Con vật ” mà đề bài yêu cầu miêu tả là con vật như thế nào? ( Là con vật mà em yêu thích )
 + Giáo viên gạch chân các từ: "tả, con vật, yêu thích "
 3. 1. 2. Hướng dẫn học sinh thực hiện lần lượt theo quy trình các tiết Tập làm văn.
Để các em làm được một bài văn hay thì việc hướng dẫn học sinh thực hiện đảm bảo đúng quy trình là một bước quan trọng, không thể bỏ bớt một bước nào. Vì thế, tôi đã hướng dẫn học sinh theo một quy trình như sau: Hướng dẫn học sinh quan sát, sau đó cho các em làm bài viết và cuối cùng là trả bài. Đây là quy trình đầy đủ. Học sinh nắm được nội dung và yêu cầu của mỗi bài, mỗi tiết, biết được để viết một bài văn hoàn chỉnh phải tiến hành đầy đủ, đúng quy trình. Học sinh biết được từng tiết mình phải làm những việc gì. biết dừng lại ở nội dung nào.
 Ví dụ: Với đề bài : Tả một đồ vật mà em yêu thích. Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện lần lượt như sau: 
+ Ở Tiết thứ nhất tôi yêu cầu học sinh tìm hiểu đề, cho học sinh quan sát và từ những điều các em quan sát được, lập một dàn ý đầy đủ.
+ Đến tiết 2: Chọn một phần trong dàn ý để viết thành một đoạn văn. Phần này tôi hướng dẫn các em tự chọn một phần trong nội dung chính tức là viết phần thân bài, tả hình dáng con vât, không phải giới thiệu con vật( mở bài ), chưa viết phần kết bài. Hoặc các em viết về phần ích lợi của con vật.
+ Tiết 3: Yêu cầu các em viết đoạn mở bài, kết bài. Trước khi vào nội dung chính của tiết học. Tôi yêu cầu học sinh nhắc lại tiết 2 các em đã làm gì? Tiết 3 yêu cầu làm gì?. Làm như vậy các em hình dung ra ngay là viết một bài văn hoàn chỉnh phải đầy đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Từ đó các em biết mình phải thực hiện yêu cầu ở tiết học này là viết mở bài, kết bài còn phần thân bài tiết trước đã làm.
+ Tiết 4: Làm bài viết ( hoàn thành một bài văn). Vậy là việc làm ở các tiết trước là bước chuẩn bị để tiết 4 viết một bài văn hoàn chỉnh đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
 3. 2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả và sắp xếp ý.
3.2.1- Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả
Kết quả quan sát chính là yếu tố quan trọng để viết nên bài văn. Qua mỗi lần quan sát sẽ làm giàu thêm kho biểu tượng của các em, mà mỗi khi cần miêu tả các em sẽ dễ dàng thiết lập được hình ảnh so sánh giữa chi tiết, bộ phận hay sự vật cần miêu tả với hình ảnh có sẵn trong vốn biểu tượng của mình. Trong miêu tả thì quan sát là một trong những biểu tượng quan trọng nhất. Sử dụng phương pháp này nhằm phát huy ngôn ngữ của học sinh, phát huy trí tưởng tượng phong phú, khả năng sáng tạo tinh tế của các em.
Từ thực tế ta thấy những câu văn hay, sống động giàu hình ảnh là những câu văn được quan sát thực tế một cách tinh tế, tỉ mỉ.
Vì vậy, tôi luôn quan tâm tổ chức cho học sinh quan sát. Khi học sinh quan sát thực tế, tôi hướng dẫn các em chọn vị trí như thế nào cho thuận lợi, ghi lại đầy đủ những điều quan sát được từ đối tượng quan sát, phối hớp các giác quan ( thính giác, vị giác, khứu giác... ) trong quá trình quan sát. Chẳng hạn dùng mắt để nhận biết màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng ...), hình dạng ( cao, thấp, béo, gầy ...) hay hoạt động của đối tượng miêu tả. 
Để làm được điều này, tôi luôn chú ý tạo điều kiện cho học sinh đến tận nơi quan sát đối tượng và coi đó là nguyên tắc khi giảng dạy văn miêu tả của mình. Chỉ trên cơ sở thu nhận trực tiếp các ấn tượng cảm xúc về sự vật, hiện tượng, các nhận xét, thì cảm xúc mới nảy sinh, có như thế bài viết thực sự có cảm xúc.
 Ví dụ: Với đề bài: Mùa xuân đến, cây cối đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Hãy tả lại một cây ăn quả vào buổi sáng mùa xuân.
Trước tiên học sinh phải xác định loại cây mình định tả. Sau đó tôi hướng dẫn các em lựa chọn vị trí để quan sát:
- Em tả cây gì? ( cây xoài, na , ổi )
- Em phải lựa chọn vị trí như thế nào để quan sát tả cây ăn quả một cách chi tiết, đầy đủ, bao quát? ( lựa chọn nơi thấy rõ toàn cảnh nhất )
 - Làm thế nào để tả cây ăn quả một cách chi tiết cụ thể? (lại gần để quan sát)
 Tôi còn hướng dẫn cho học sinh cần phối hợp các giác quan khi quan sát.
Ví dụ: Tả một loại trái cây mà em yêu thích. Khi hướng dẫn học sinh quan sát một loại trái cây, tôi đặt các câu hỏi như sau:
- Sờ vào bề mặt trái cây em có cảm giác như thế nào?
- Khi ăn loại trái cây đó em thấy hương vị của nó thế nào?
 Sẽ góp phần giúp học sinh viết được đoạn, bài văn cụ thể, sinh động thì việc lựa chọn vị trí quan sát và phối hợp nhiều giác quan trong quan sát là rất cần thiết. Bên cạnh đó, một yêu cầu rất quan trọng nữa cần hướng dẫn các em trong quá trình quan sát đó là:
- Lựa chọn trình tự quan sát:
+ Trình tự thời gian: Quan sát tả cây cối theo thời gian trong ngày: buổi sáng, trưa, chiều, quan sát các mùa trong năm.
+ Trình tự không gian: Quan sát từ trái sang phải hay từ trên xuống dưới hay từ ngoài vào trong hoặc ngược lại. Quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại. Song dù quan sát theo trình tự nào cũng cần tập trung quan sát bộ phận chủ yếu, hướng dẫn học sinh dùng các giác quan để quan sát.
 Ví dụ: Với đề bài: Hãy tả một cây bóng mát.
 Tôi đặt câu hỏi để hướng dẫn các em quan sát một cách có trình tự:
- Tả một cây bóng mát, các em cần quan sát như thế nào? ( quan sát theo trình tự thời gian hoặc không gian )
- Khi quan sát em đã sử dụng những giác quan nào? ( thị giác, thính giác, xúc giác, ...)
Từ cách đặt câu hỏi trên, tôi đã giúp các em biết quan sát theo trình tự hợp lí và phối hợp nhiều giác quan trong quá trình quan sát.
 Ngoài ra, tôi còn có thể tổ chức cho học sinh quan sát thực tế.
Ví dụ: Đề bài yêu cầu: Tả một cây bóng mát ở sân trường em.
Tôi tổ chức cho học sinh quan sát toàn cảnh trường mình. Tôi đưa học sinh ra sân trường tập hợp nhắc nhở những điều cần thiết như: đảm bảo trật tự, nhắc cho học sinh nhớ cách quan sát đã học ở các tiết tả cảnh như: Quan sát từ xa đến gần. Khi quan sát các em cần ghi lại những gì mình quan sát được, cần kết hợp nhiều giác quan như: Mắt thấy, tai nghe, mũi cảm nhận...cần quan sát cảnh vật xung quanh như trời, mây, gió, chim chóc, thời tiết...
 Trong khi học sinh tự do quan sát, tôi theo dõi giúp đỡ những học sinh còn lúng túng, học sinh ham chơi, nếu thấy các em khó khăn vướng mắc thì tôi gợi ý, hướng dẫn thêm cho các em. Đến giờ tôi tập hợp lớp, cho một số học sinh nêu những gì mình quan sát, ghi lại được, học sinh khác nhận xét, bổ sung. Đặc biệt quan tâm, giúp đỡ học sinh còn lúng túng nói trước lớp. Cuối cùng nhận xét thái độ học tập sau đó cho học sinh về lớp.
 3.2.2- Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả, ghi chép nội dung quan sát và tìm ý.
Quan sát bên ngoài là dùng các giác quan như: thị giác, thính giác, xúc giác,... mà cảm nhận và phát hiện ra xem sự vật đó có hình dáng, đường nét, màu sắc,... như thế nào rồi phải xác định vị trí người quan sát, trình tự quan sát như: từ xa đến gần hay từ ngoài vào trong. 
Quan sát bên trong là quan sát có so sánh, suy nghĩ và cảm xúc. Tất cả những chi tiết đặc trưng nhất của sự vật trong thực tế không phải lúc nào cũng bộc lộ nhưng nhờ có so sánh, suy nghĩ và cảm xúc, tưởng tượng mà sự vật mới hiện ra với những nét đặc trưng của nó. Vì vốn sống thực tế gắn liền với quan sát. Khi có quan sát biết chọn lọc những chi tiết mới mẻ, đặc sắc của đối tượng miêu tả thì học sinh sẽ dần ham thích ghi chép.
Bằng sự hướng dẫn của giáo viên qua hệ thống câu hỏi gợi ý, học sinh quan sát đối tượng miêu tả bằng nhiều giác quan và nhìn sự vật bằng cách nhìn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_nang_cao_chat_luon.doc