SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa lí

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa lí

Khi xã hội phát triển, việc hình thành thế giới quan cho học sinh là rất quan trọng, đặc biệt là đối với học sinh lớp 12. Đây là đối tượng dễ nhạy cảm với những biến đổi của xã hội, nhất là khi các em chuẩn bị rời ghế nhà trường THPT để bước vào một cánh cửa mới của cuộc đời. Dạy học là chăm bồi cả đức lẫn tài cho một thế hệ tương lai kế thừa gìn giữ và xây dựng tổ quốc mai sau phồn vinh hơn.Việc truyền đạt kiến thức cho học sinh cũng góp phần giúp các em có thể tiếp nhận một nguồn thông tin bổ ích để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh đang được các trường triển khai rộng rãi. Để thực hiện tốt yêu cầu đó người làm công tác giáo dục phải tìm ra những giải pháp có hiệu quả để giúp các em học tốt các môn học nói chung và môn địa lí nói riêng.

Với tình hình giảng dạy môn Địa lí hiện nay ở trường tôi cho thấy: phụ huynh và học sinh đều có xu hướng lựa chọn các môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Ngoại Ngữ làm các môn học chính để theo học nhằm phục vụ cho việc thi Đại học - Cao đẳng, còn môn Địa lí chỉ là môn học phụ. Tâm lý phân biệt môn chính, môn phụ vốn đã hình thành trong đầu óc của phụ huynh, học sinh và ngay cả một số giáo viên từ xưa đến nay, nhiều người vẫn cho học Địa lí là học thuộc lòng những gì cô dạy, như: nhớ số liệu, địa danh, đặc điểm của một số đối tượng địa lí như vậy là đủ. Còn kĩ năng và tư duy dành cho các môn Toán, Lý, Hóa Vì lẽ đó phụ huynh thường khuyên con, em mình học lớp 12 không cần chú tâm vào học môn Địa lí sẽ mất nhiều thời gian. Điều này khiến cho các em học sinh lớp 12 có thái độ coi thường học Địa lí, khiến giờ học Địa lí trở nên nhàm chán, khó tiếp thu, gây ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dạy và học.

Xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị tôi đang công tác và những vấn đề xã hội được đề cập ở trên. Với mong muốn được góp phần đưa chất lượng môn Địa lí ngày càng được nâng cao, tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài sau: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa lí”. Rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của tất cả anh chị em, bạn bè đồng nghiệp.

 

doc 17 trang thuychi01 9641
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A .MỞ ĐẦU:
I/ Lý do chọn đề tài:
Khi xã hội phát triển, việc hình thành thế giới quan cho học sinh là rất quan trọng, đặc biệt là đối với học sinh lớp 12. Đây là đối tượng dễ nhạy cảm với những biến đổi của xã hội, nhất là khi các em chuẩn bị rời ghế nhà trường THPT để bước vào một cánh cửa mới của cuộc đời. Dạy học là chăm bồi cả đức lẫn tài cho một thế hệ tương lai kế thừa gìn giữ và xây dựng tổ quốc mai sau phồn vinh hơn.Việc truyền đạt kiến thức cho học sinh cũng góp phần giúp các em có thể tiếp nhận một nguồn thông tin bổ ích để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh đang được các trường triển khai rộng rãi. Để thực hiện tốt yêu cầu đó người làm công tác giáo dục phải tìm ra những giải pháp có hiệu quả để giúp các em học tốt các môn học nói chung và môn địa lí nói riêng.
Với tình hình giảng dạy môn Địa lí hiện nay ở trường tôi cho thấy: phụ huynh và học sinh đều có xu hướng lựa chọn các môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Ngoại Ngữ làm các môn học chính để theo học nhằm phục vụ cho việc thi Đại học - Cao đẳng, còn môn Địa lí chỉ là môn học phụ. Tâm lý phân biệt môn chính, môn phụ vốn đã hình thành trong đầu óc của phụ huynh, học sinh và ngay cả một số giáo viên từ xưa đến nay, nhiều người vẫn cho học Địa lí là học thuộc lòng những gì cô dạy, như: nhớ số liệu, địa danh, đặc điểm của một số đối tượng địa lí như vậy là đủ. Còn kĩ năng và tư duy dành cho các môn Toán, Lý, Hóa Vì lẽ đó phụ huynh thường khuyên con, em mình học lớp 12 không cần chú tâm vào học môn Địa lí sẽ mất nhiều thời gian. Điều này khiến cho các em học sinh lớp 12 có thái độ coi thường học Địa lí, khiến giờ học Địa lí trở nên nhàm chán, khó tiếp thu, gây ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dạy và học.
Xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị tôi đang công tác và những vấn đề xã hội được đề cập ở trên. Với mong muốn được góp phần đưa chất lượng môn Địa lí ngày càng được nâng cao, tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài sau: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa lí”. Rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của tất cả anh chị em, bạn bè đồng nghiệp.
II/ Mục đích nghiên cứu:
Thông qua đề tài này, tôi có thể đề ra được những giải pháp dạy học giúp học sinh lớp 12 nhận thức được môn Địa lí không chỉ là môn học mang tính học thuộc và ghi nhớ mà Địa lí cũng là môn học đòi hỏi người học phải tư duy lôgíc, phải có kĩ năng tính toán, đào sâu phân tích, giải thích các hiện tượng địa lí tự nhiên hoặc kinh tế - xã hội. Bằng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên sẽ hình thành trong học sinh thái độ đúng đắn và hứng thú đối với môn Địa lí. Từ đó giúp các em ngày càng yêu thích và học tốt môn Địa lí hơn nữa. Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí ở trường THPT Nguyễn Quán Nho.
III/ Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa lí.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
1/ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 
2/ Phương pháp quan sát 
3/ Phương pháp khảo sát, điều tra 
4/ Phương pháp thu thập thông tin 
5/ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu 
B. NỘI DUNG:
I/ Cơ sở lí luận của đề tài:
Các nhà tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng: “hứng thú có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người”. Nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào các hoạt động. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao. Trong hoạt động học tập cũng vậy, hứng thú có vai trò hết sức quan trọng, thực tế cho thấy hứng thú đối với các bộ môn của học sinh tỉ lệ thuận với kết quả học tập của các em. Vì vậy quá trình dạy và học tích cực đòi hỏi sự biến đổi không ngừng cả tư duy lẫn hành động của người dạy và người học. Trước hết, người giáo viên Địa lí phải có năng lực sư phạm vững vàng bởi vì dạy học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, giáo viên phải có phương pháp dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc tìm kiếm lĩnh hội tri thức. Cụ thể:
 - Phải nắm được phương pháp dạy học đặc trưng của môn Địa lí. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung bài học, kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy học, tổ chức tốt hoạt động của thầy và trò.
 - Phải đảm bảo kiến thức chính xác theo chuẩn kiến thức và kĩ năng Địa lí, đảm bảo tính hệ thống giúp học sinh dễ học, dễ hiểu.
 - Phải tổ chức nhiều hình thức học tập thích hợp, điều khiển học sinh học tập tích cực và chủ động. Chú ý đến từng đối tượng học sinh, kèm cặp, giúp đỡ các học sinh còn yếu, tiếp thu bài còn chậm.
Như vậy, mỗi người giáo viên Địa lí ngoài kiến thức bộ môn, kĩ năng sư phạm thì bản thân cần phải có nghệ thuật, biết khơi gợi, kích thích lòng ham muốn học hỏi, hiểu biết của học sinh bằng cả tấm lòng nhiệt tình, bằng sự khéo léo trong xử lý tình huống, trong nghiệp vụ sư phạm của mình để hình thành cho học sinh một kĩ năng, một thói quen tốt, một nhận thức đúng đắn và đầy đủ, sâu sắc về kiến thức được lĩnh hội.
II/ Thực trạng:
1/ Tình hình chung:
 a/ Thuận lợi.
- Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của BGH nhà trường và các cấp lãnh đạo và sự tín nhiệm và ủng hộ của cha mẹ học sinh. 
- Được sự hỗ trợ của các giáo viên có kinh nghiệm, nhiệt tình trong công tác. Học sinh ham học hỏi, có trí phấn đấu.	
	- Đồ dùng dạy học và một số phương tiện dạy học hiện đại đã được nhà trường trang bị tương đối đầy đủ.
 b/ Khó khăn.
	- Khả năng nhận thức của học sinh còn chậm, việc áp dụng kỹ năng tính toán còn hạn chế.
 	 - Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình, không đôn đốc con em học tập ở nhà.
 	 - Cơ sở vật chất còn thiếu đồng bộ: phương tiện dạy học, tài liệu tham khảo còn ít, chưa có phòng học chức năng. 
2/ Tình hình thực tế của việc dạy học Địa lí trước khi thử nghiệm đề tài nghiên cứu đối với học sinh lớp 12, trường THPT Nguyễn Quán Nho: 
	Bản thân tôi đã có 4 năm đảm nhận dạy Địa lí lớp 12 và trực tiếp ôn thi tốt nghiệp cho các em, qua quá trình giảng dạy ở trên lớp và qua một vài buổi trao đổi chuyên môn với một số đồng nghiệp cùng với việc thăm rò, tìm hiểu ý kiến của các em học sinh lớp 12. Tôi nhận thấy việc dạy học Địa lí theo phương pháp đổi mới nhằm tạo hứng thú cho học sinh học tốt môn Địa lí ở trường tôi vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Cụ thể:
a/ Về phần giáo viên:
- 	Việc áp dụng phương pháp dạy hoc tích cực chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử sụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng nề truyền thụ kiến thức lí thuyết, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi hoặc một bộ phận giáo viên còn lạm dụng hoặc thiếu kỹ năng CNTT nên làm giảm hiệu quả giờ dạy trên lớp.
- 	Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác công bằng. Việc kiểm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh duy trì dạy học theo lối “đọc - chép”, học sinh học tập thiên về ghi nhớ, ít quan tâm vận dụng kiến thức. Nhiều giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên soạn đề kiểm tra nên các bài kiểm tra còn nặng tính chủ quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra, đánh giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp chưa được quan tâm thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Chưa nhận thức đúng mối quan hệ giữa đổi mới PPDH và đổi mới kiểm tra, đánh giá nên đã gây khó khăn không nhỏ cho việc tự học của học sinh cũng như phản ánh không khách quan kết quả học tập của các em...
b/ Về phần học sinh:
	Nhiều học sinh lớp 12 còn nặng nề tư tưởng coi môn Địa lí là môn phụ, toàn khối 12 năm học 2015 – 2016 ở trường tôi chỉ có 3 em/ 270 em học sinh theo học khối C còn lại là các em theo khối A, A1, B, D1, T, M... nên nhiều em có thái độ xem nhẹ việc học Địa lí. Biểu hiện:
	- Tỷ lệ bài kiểm tra trung bình học kì I của toàn khối 12 như sau: loại giỏi 6,3%, loại khá 51,5%, loại trung bình 37,4%, loại yếu 4,8%.
	- Thực trạng học địa lí ở những lớp này thường không sôi nổi. Các em chỉ học và trả lời những kiến thức có sẵn trong sách, khả năng tư duy và tìm tòi kém. Những câu hỏi mở rộng được giáo viên đưa ra các em ít khi trả lời đúng và đầy đủ. 
	- Thái độ đối với học tập không hào hứng, nhiệt tình, mang đậm tính sách vở, nhiều khi còn học vẹt, đối phó trong các giờ kiểm tra nên tỷ lệ học sinh giỏi rất ít vì vậy việc học địa lí trở nên nhàm chán, ít cuốn hút các em hơn.
 III/ Biện pháp khắc phục:
 Trước hết, tôi muốn đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 – trường THPT Nguyễn Quán Nho có hứng thú và yêu thích môn Địa lí:
1/ Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh để thể hiện các mối quan hệ địa lí: 
	Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy Địa lí tại trường tôi thấy rằng ngoài các hình thức dạy học truyền thống nếu ta biết đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học thì hiệu quả bài dạy cao hơn. Các mối quan hệ địa lí rất đa dạng và phong phú: tự nhiên - tự nhiên, tự nhiên - xã hội, kinh tế xã hội - tự nhiên cùng với việc tạo không khí chủ động học sinh nắm bài nhanh hơn, dễ dàng phân biệt được các mối quan hệ để phán đoán nhận định đúng về các sự vật, hiện tượng địa lí. Đối với mỗi bài dạy người giáo viên cần xác định rõ mục tiêu bài đó cần cung cấp cho học sinh những kiến thức gì? Rèn kỹ năng địa lí gì? Dựa trên mục tiêu đó giáo viên sẽ chọn lựa hình thức, biện pháp phù hợp với nội dung bài học. 
	Đối với học Địa lí thì sử dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động trong giờ học Địa lí là một thế mạnh thu hút sự chúg ý rất lớn với học sinh. Các em sẽ được tự mình sắp xếp thể hiện các mối quan hệ địa lí một cách dễ dàng hơn theo cách hiểu của mình, được thể hiện khả năng tư duy trước mọi người. Đó cũng là một cách để học sinh tham gia vào bài giảng nhiều hơn, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập, tạo không khí sôi nổi vui vẻ. Hơn nữa để tham gia được vào những phương pháp đổi mới địa lí ấy, đòi hỏi các em phải chăm học, tập trung nghe giảng trên lớp, luôn quan sát mọi sự vật hiện tượng xung quanh, chăm đọc sách báo. Nhờ vậy khả năng tư duy nhanh nhạy, sáng tạo, từ đó sẽ có nhiều cách học thông minh được trò tìm ra và thể hiện, học hỏi lẫn nhau. Do đó học Địa lí sẽ nhàn hơn, dễ hiểu, dễ nhớ, khiến các em yêu thích môn học.
2/ Xây dựng tình huống có vấn đề:
	- 	Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách nào, chưa đủ kiến thức để giải quyết.
	- 	Khi xây dựng tình huống có vấn đề, GV cần cung cấp thông tin, tạo tình huống, HS phát hiện vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn phương pháp giải quyết sau đó GV và HS cùng đánh giá.
Ví dụ: Địa lí 12 – Bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển:
GV đặt câu hỏi có vấn đề và yêu cầu HS thảo luận theo nhóm. Nội dung câu hỏi: “Tại sao cùng vĩ độ với nước ta nhưng ở khu vực Tây Nam Á lại có cảnh quan hoang mạc và bán hoang mạc còn cảnh quan thiên nhiên ở nước ta lại phát triển đới rừng nhiệt đới ẩm quanh năm xanh tốt”?
 HS có thể đưa ra các giả thuyết để trả lời, như: 
 - Nguyên nhân làm cho Tây Nam Á phát triển cảnh quan hoang mạc và bán hoang mạc, do: Tây Nam Á là khu vực nằm sâu trong lục địa nên khí hậu mang tính lục địa khô nóng, khắc nghiệt...
 - Nguyên nhân làm cho cảnh quan thiên nhiên nước ta phát triển đới rừng nhiệt đới ẩm, khác biệt so với Tây Nam Á, do: nước ta có đường bờ biển dài (3260km), từ Bắc xuống Nam nước ta có 28/63 tỉnh giáp biển Đông, đây là kho dự trữ ẩm dồi dào, khi các khối khí từ biển thổi vào nước ta sẽ mang lại lượng mưa và đổ ẩm lớn làm cho khí hậu nước ta mang tính hải dương sâu sắc...
	GV nhận xét và cũng cố lại kiến thức cho HS, nhấn mạnh: Biển Đông đã tác động mạnh mẽ đến thiên nhiên nước ta làm cho cảnh quan thiên nhiên nước ta ôn hòa, cây cối 4 mùa xanh tốt, khác hẳn so với các nước khác có cùng vĩ độ.
3/ Tổ chức trò chơi.
a/ Thi giải thích các hiện tượng địa lí trong bài.
b/ Mô tả các mối quan hệ địa lí theo cách của em.
c/ Xếp hình và ghép tên.
Ví dụ: Địa lí 12: Bài 3: Vấn đề khai thác thế mạnh ở TDMN Bắc Bộ.
Nối tên các nhà máy thủy điện với các dòng sông tương ứng:
1/ Hòa Bình	A/ Sông Chảy
2/ Sơn La	B/ Sông Gâm
3/ Thác Bà	 C/ Sông Đà
4/ Tuyên Quang
	*Lưu ý: Với mỗi hình thức trò chơi, ngoài đáp án đã soạn sẵn giáo viên có thể đánh giá cho điểm dưới nhiều hình thức khác nhau tạo không khí sôi nổi trong học tập. Giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau trong kiểm tra và củng cố bài, tuỳ theo từng bài học để lựa chọn. Bằng cách nêu các câu hỏi tình huống có vấn đề, sử dụng các dạng bài tập có sẵn trong SGK, SBT, hoặc GV tự nghĩ ra, bằng cách sử dụng bảng phụ có đề sẵn trò chơi, tận dụng bảng chữ cái tiếng Anh đa dụng, các thanh gắn nam châm hoặc các mảnh xốp mỏng, giấy A4 để tự tạo ra các trò chơi đơn giản nhằm phục vụ cho học tập đạt hiệu quả. Qua đó giúp học sinh tự mình khái quát lại toàn bộ những kiến thức cần nắm vững sau bài học.
`4/ Sử dụng các phương tiện nghe nhìn (máy chiếu projector): 
Thực tế cho thấy, việc đổi mới phương pháp chỉ có hiệu quả và tác động tích cực khi giảng viên có kiến thức chuyên môn vững vàng và được trang bị những kỹ năng cần thiết về khả năng thuyết trình, hiểu biết và sử dụng các công cụ hỗ trợ giảng dạy như tin học và các trang thiết bị nghe nhìn. Việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn như máy chiếu projector vào trong giảng dạy giúp cho người học có hứng thú, dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ qua đó giúp người dạy chuyển tải nội dung đến người học một cách có hiệu quả nhất. 
Ví dụ 1: Địa lí 12: Bài 33 - Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở Đồng bằng sông Hồng.
	GV giới thiệu bài mới bằng cách cho HS quan sát lên màn chiếu projector những hình ảnh sau và hãy cho biết những hình ảnh này nhắc đến vùng kinh tế nào ở nước ta?
1
2
3
4
	HS dựa vào hiểu biết của mình có thể trả lời được : Đây là những hình ảnh nhắc đến vùng Đồng bằng sông Hồng, cụ thể : 
	- Hình 1: thể hiện cánh đồng lúa chín. Lúa nước là cây trồng truyền thống của vùng Đồng bằng sông Hồng.
	- Hình 2: Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt ở Hà Nội. Hà Nội là thủ đô của cả nước và cũng là một tỉnh của vùng Đồng bằng sông Hồng.
	- Hình 3: Hồ Gươm hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm, là một trong những điểm du lịch hấp dẫn ở Hà Nội.
	-	Hình 4: Thể hiện mật độ người tham gia giao thông quá đông đúc dẫn đến tình trạng tắc đường ở thủ đô Hà Nội. 
Ví dụ 2: Địa lí 12: Bài 6: Đất nước nhiều đồi núi.
	Khi cho HS tìm hiểu về đặc điểm địa hình vùng núi Đông Bắc, GV sử dụng phần mềm MAP INFO để tạo lược đồ địa hình vùng núi Đông Bắc được tách ra từ lược đồ địa hình Việt Nam rồi sử dụng máy chiếu projector để chiếu lên cho HS quan sát kĩ:
LƯỢC ĐỒ ĐỊA HÌNH VÙNG NÚI ĐÔNG BẮC
Sau khi quan sát lược đồ địa hình vùng núi Đông Bắc trên màn chiếu, HS có thể thấy được:
- Hướng núi: vòng cung với 4 cánh cung chụm đầu ở dãy núi Tam Đảo thuộc huyện Việt Trì - tỉnh Phú Thọ, mở ra ở hướng Bắc( CC. Sông Gâm, CC. Ngân Sơn), và ở hướng Đông(CC. Bắc Sơn, CC. Đông Triều) tạo thuận lợi cho gió mùa Đông Bắc xâm nhập vào lãnh thổ nước ta.
- Địa hình núi thấp và núi trung bình chiếm phần lớn diện tích
Thứ hai, để học sinh lớp 12 trường tôi có được những kĩ năng học tốt môn địa lí tôi mạnh dạn đề xuất những giải pháp sau:	
1/ Tổ chức và hướng dẫn học sinh kĩ năng sử dụng các thiết bị:
Thiết bị và phương tiện dạy học phong phú, hiện đại, thực sự là công cụ cho học sinh trong việc nghiên cứu khám phá kiến thức một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Do vậy, giáo viên cần tổ chức hướng dẫn học sinh tiến hành các hoạt động học tập nhằm khai thác và lĩnh hội kiến thức với phương tiện dạy học Địa lí sau:
a/ Đọc bản đồ, lược đồ: 
Đối với việc dạy học Địa lí, bản đồ là nguồn kiến thức quan trọng và được coi như quyển sách thứ hai của học sinh. Tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ giáo viên cần lưu ý hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên bản đồ theo các bước sau:
 -	 Đọc tên bản đồ để biết đối tượng địa lí thể hiện trên bản đồ là gì?
 Ví dụ: 
Bản đồ địa hình thì đối tượng thể hiện trên bản đồ chủ yếu là địa hình (các dạng địa hình và sự phân bố của chúng); Bản đồ khí hậu thì đối tượng thể hiện chủ yếu của bản đồ sẽ là các yếu tố khí hậu (Nhiệt độ, khí áp, gió, mưa...) hoặc bản đồ công nghiệp thì đối tượng thể hiện chủ yếu sẽ là các trung tâm và các ngành công nghiệp.
 -	 Đọc bảng chú giải để biết cách người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ như thế nào? Bằng các kí hiệu gì? Bằng các màu gì? Bởi các kí hiệu qui ước trên bản đồ là những biểu trưng của các đối tượng, hiện tượng địa lí trong hiện thực khách quan. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết thông qua những kí hiệu đó mà rút ra nhận xét về tính chất, đặc điểm của các đối tượng địa lí được thể hiện trên bản đồ.
 -	Dựa vào các kí hiệu, màu sắc trên bản đồ để xác định vị trí của các đối tượng địa lí. 
 - 	Dựa vào bản đồ kết hợp với kiến thức địa lí, vận dụng các thao tác tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp) để phát hiện các mối liên hệ địa lí không thể hiện trực tiếp trên bản đồ (đó là mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, các yếu tố kinh tế với nhau) nhằm giải thích sự phân bố cũng như đặc điểm các đối tượng, hiện tượng địa lí.
b/ Biểu đồ: 
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phân tích biểu đồ theo các bước:
 - Đọc tiêu đề phía trên hoặc phía dưới biểu đồ, xem biểu đồ thể hiện, hiện tượng gì? (khí hậu, cơ cấu kinh tế, phát triển dân số).
 - Tìm hiểu xem các đại lượng thể hiện trên biểu đồ là gì?(nhiệt độ, lượng mưa, các ngành kinh tế, dân số...) trên lãnh thổ nào và thời gian nào, được thể hiện trên biểu đồ như thế nào? (theo đường, cột, hình quạt...) và trị số các đại lượng được tính bằng gì?(mm, %, triệu người...).
 Ví dụ: Địa lí 12: Bài 19: Thực hành: Vẽ biểu đồ và phân tích sự phân hóa về thu nhập bình quân theo đầu người giữa các vùng.
	Bảng 19 – SGK Trang 80. GV yêu cầu HS đọc bảng số liệu và đọc kĩ lệnh câu hỏi đặt ra yêu cầu vẽ biểu đồ thể hiện yếu tố địa lí nào để lựa chọn dạng biểu đồ thích hợp. Cụ thể:
Yêu cầu: Vẽ biểu đồ thể hiện thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa các vùng nước ta, năm 2004.
HS vận dụng kiến thức của mình và nhận dạng biểu đồ thích hợp với yêu cầu của đề bài là dạng Biểu đồ cột đơn hoặc biểu đồ thanh ngang:
 - Tên biểu đồ: Biểu đồ thể hiện mức thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa các vùng nước ta, năm 2004.
 - Trục đứng thể hiện mức thu nhập bình quân đầu người/tháng (đơn vị: Nghìn đồng, tỉ lệ chia ở trục đứng dựa vào số liệu trong SGK), trục ngang thể hiện tên vùng (khoảng cách giữa các vùng đặt trên trục là bằng nhau). GV chuẩn hóa kiến thức, yêu cầu một HS lên bảng vẽ mẫu:
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI/THÁNG GIỮA CÁC VÙNG NĂM 2004.
c/ Bảng số liệu:
	Khi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ các bảng số liệu thống kê (hoặc các số liệu riêng lẻ). Cần chú ý học sinh:
Không bỏ sót số liệu nào.
Phân tích các số liệu tổng quát trước khi đi vào số liệu cụ thể.
Tìm các trị số lớn nhất, nhỏ nhất, trung bình.
Xác lập mối quan hệ giữa các số liệu, so sánh đối chiếu các số liệu theo cột, theo hàng để rút ra nhận xét.
	- Đặt ra các câu hỏi để giải đáp trong khi phân tích, tổng hợp các số liệu nhằm tìm ra kiến thức mới.
	Ví dụ: Địa lí 12: Bài 38: Thực hành: So sánh về cây công nghiệp lâu năm và chăn nuôi gia súc lớn giữa vùng TDMN Bắc Bộ và Tây Nguyên.
Yêu cầu HS phân tích bảng số liệu 38.2 – SGK trang 175:
	 Số lượng trâu, bò năm 2005. (ĐV: Nghìn con):
TDMN Bắc Bộ
Tây Nguyên
Trâu
1679,5
71,9
Bò
899,8
616,9
Đọc rõ số liệu.
So sánh số liệu và rút

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_12_yeu_thich_mon_dia.doc