SKKN Một số giải pháp dạy toán lớp 4 theo hướng Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

SKKN Một số giải pháp dạy toán lớp 4 theo hướng Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

Trong chương trình môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm số giờ rất lớn. Việc sử dụng phương pháp dạy học (PPDH) giống như đồ nghề của người thợ mộc, chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tùy thuộc vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và học, tùy thuộc vào hoàn cảnh dạy học cụ thể: Đối tượng học sinh, thiết bị dạy học và không khí học tập. Trong thực tiễn không một giáo viên có kinh nghiệm nào lại sử dụng đơn điệu một phương pháp trong hoạt động dạy học của mình. Dạy học cũng như người thợ mộc, để thực hiện một thao tác nhằm tạo ra một chi tiết thì chỉ cần một công cụ, nhưng muốn có một sản phẩm trọn vẹn (bàn, ghế, tủ, ) thì phải phối hợp nhiều thao tác, sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối hợp các PPDH trong một bài dạy của một người giáo viên.

Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Toán ở tiểu học nói riêng người giáo viên phải biết kết hợp nhiều PPDH vào trong một tiết dạy. Không được xem nhẹ một phương pháp nào, mỗi PPDH có những mặt tích cức và hạn chế riêng, không nên tuyệt đối hóa một PPDH nào. Để tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả, giáo viên cần biết cách lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng PPDH phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở tửng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho ngành Giáo dục là phải đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học để sao cho nền giáo dục nước nhà đem lại kết quả ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như các nước tiên tiến trên thế giới.

Bộ Giáo dục đang triển khai đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục – đào tạo trong đó có đổi mới chương trình giáo dục các cấp học nói chung, chương trình Tiểu học nói riêng và góp phần phát triển nhanh chóng quy mô cũng như chất lượng giáo dục phổ thông. Nhưng trước yêu cầu cấp bách đến việc chuẩn bị cho lớp người lao động mới phục vụ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, việc đổi mới các phương pháp dạy học, đổi mới PPDH Toán lớp 4 là yêu cầu cần thiết.

 

doc 14 trang thuychi01 25926
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp dạy toán lớp 4 theo hướng Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU
2
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. PHẦN NỘI DUNG
4
2.1. Cơ sở lí luận
4
2.2. Thực trạng
4
2.2.1. Về phía giáo viên
4
2.2.2. Về phía học sinh
5
2.3. Các giải pháp, biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
12
3.1. Kết luận
12
3.2. Kiến nghị
13
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm số giờ rất lớn. Việc sử dụng phương pháp dạy học (PPDH) giống như đồ nghề của người thợ mộc, chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tùy thuộc vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và học, tùy thuộc vào hoàn cảnh dạy học cụ thể: Đối tượng học sinh, thiết bị dạy học và không khí học tập. Trong thực tiễn không một giáo viên có kinh nghiệm nào lại sử dụng đơn điệu một phương pháp trong hoạt động dạy học của mình. Dạy học cũng như người thợ mộc, để thực hiện một thao tác nhằm tạo ra một chi tiết thì chỉ cần một công cụ, nhưng muốn có một sản phẩm trọn vẹn (bàn, ghế, tủ,) thì phải phối hợp nhiều thao tác, sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối hợp các PPDH trong một bài dạy của một người giáo viên.
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Toán ở tiểu học nói riêng người giáo viên phải biết kết hợp nhiều PPDH vào trong một tiết dạy. Không được xem nhẹ một phương pháp nào, mỗi PPDH có những mặt tích cức và hạn chế riêng, không nên tuyệt đối hóa một PPDH nào. Để tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả, giáo viên cần biết cách lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng PPDH phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở tửng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho ngành Giáo dục là phải đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học để sao cho nền giáo dục nước nhà đem lại kết quả ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như các nước tiên tiến trên thế giới.
Bộ Giáo dục đang triển khai đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục – đào tạo trong đó có đổi mới chương trình giáo dục các cấp học nói chung, chương trình Tiểu học nói riêng và góp phần phát triển nhanh chóng quy mô cũng như chất lượng giáo dục phổ thông. Nhưng trước yêu cầu cấp bách đến việc chuẩn bị cho lớp người lao động mới phục vụ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, việc đổi mới các phương pháp dạy học, đổi mới PPDH Toán lớp 4 là yêu cầu cần thiết.
Trong đó môn Toán nói chung, môn Toán lớp 4 nói riêng là nền tảng cho nền kiến thức sau này. Các em mà hổng kiến thức ở bậc Tiểu học thì sau này các em khó có thể giải các bài toán ở bậc cao hơn. Mà bất cứ một ngành nào hay một lĩnh vực nào thì Toán học cũng giúp chúng ta thành đạt, giúp mọi nhà doanh nghiệp hay các nhà khoa học thành công trong việc nghiên cứu. Vậy muốn có được kết quả như mong muốn chúng ta phải gây dựng, kèm cặp ngay từ bậc Tiểu học là quan trọng nhất. Như chúng ta đã biết: Toán là “sai một li đi một dặm”, có nghĩa là Toán rất cần sự tuyệt đối chính xác.
Quan điểm chương trình mới cần thực hành, vận dụng, nên nói chung nội dung chương trình thường tinh giảm, tập trung vào các kiến thức kỹ năng cơ bản bám sát thực tế, tích hợp được nhiều mặt giáo dục. 
Chương trình toán mới đã có những đổi mới để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới nhằm giúp học sinh học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của học sinh. Để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, trước hết giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung, khả năng có thể khai thác trong từng bài. Điều quan trọng là giáo viên phải xây dựng những phương pháp huy động tính tích cực của học sinh trong hoạt động học để các em nắm chắc và vận dụng thành thạo các nội dung trong từng bài, góp phần phát triển năng lực tư duy và năng lực thực hành của học sinh.
	Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế, để giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp dạy học và đặc biệt hiện tại cũng chưa có tài liệu cụ thể nào hướng dẫn hoặc đi sâu vào bàn về vấn đề này. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm gì, làm như thế nào để các em có hứng thú trong học tập, nhất là đối với môn Toán. Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu “Một số giải pháp dạy toán lớp 4 theo hướng Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh”, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
- Giúp học sinh hình thành kỹ năng, sử dụng thành thạo và vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp học tập của môn toán lớp 4.
 - Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng dạy cho học sinh.
 - Khảo sát và đề xuất một kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Nghiên cứu về sử dụng một số phương pháp dạy toán lớp 4 theo hướng Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp so sánh, đối chứng
2. NỘI DUNG 
2.1. Cơ sở lí luận
- Trong chương trình môn Toán lớp 4, ở học kỳ I chủ yếu tập trung vào bổ sung, hoàn thiện, tổng kết, hệ thống hóa, khái quát hóa về số tự nhiên và dãy số tự nhiên, các phép tính và một số tính chất. Ở học kỳ II tập trung vào dạy phân số, dấu hiệu chia hết và một số dạng về hình học.
Nội dung chương trình toán lớp 4 gồm 6 chương:
Chương I: Số tự nhiên. Bảng đơn vị đo khối lượng
Chương II: Bốn phép tích với các số tự nhiên. Hình học
Chương III: Dấu bị chia hết cho 2, 5,9, 3. Giới thiệu hình bình hành
Chương IV: Phân số - Các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi
ChươngV: Tỉ số - Một số bài toán liên quan đế tỉ số. Tỉ lệ bản đồ
Chương VI: Ôn tập.
Về nội dung chương trình toán lớp 4: Mỗi chương là một mảng kiến thức
Bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phần giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên phải giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức Toán học. Học sinh có phương pháp học phù hợp với từng dạng bài toán thì việc học mới đạt kết quả cao. Thực tế cho thấy mấy năm trở lại đây ở đơn vị tôi các em học Toán chưa tốt, mặc dù trường đã dạy học 2 buổi/ngày, nhưng khi học sinh học Toán còn gặp nhiều khó khăn.
2.2. Thực trạng
2.2.1. Về phía giáo viên
Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức. Nguyên nhân là do giáo viên chưa thực sự nhiệt tình trong công tác giảng dạy cũng như chưa đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.
Ở các lớp 1,2,3 học sinh chủ yếu nhận biết các khái niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thực hoặc mô hình, tranh ảnh,do đó chỉ nhận biết cái toàn thể, cái riêng lẻ, chưa làm rõ các mối quan hệ, tính chất của sự vật, hiện tượng. Lên lớp 4 các em được học các kiến thức trừu tượng, khái quát, vận dụng một số tính chất của số, phép tính, hình học dạng khái quát hơn. Các em thực hành, vận dụng nhiều: Dạy học dựa vào hoạt động học của học sinh.
Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới thiệu bài cũng hết sức quan trọng vì nó là một sự chuyển tiếp giữa mảng kiến thức cũ và mảng kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa đầu tư, các kiến thức liên quan đến bài giảng chưa biết sử dụng bài trước để giới thiệu dẫn dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn vào bài mới. 
Ví dụ: Bài nào giáo viên cũng chỉ giới thiệu một cách khô khan “Hôm nay chúng ta học bài: Phép cộng phân số (tiếp theo)”. 
Khai thác nội dung kiến thức giáo viên cũng chưa làm nổi bật được khi nào bắt đầu, khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết thúc,Cách đặt ra tình huống có vấn đề, tự nhớ lại kiến thức cũ và vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong giờ học.
Ví dụ: Bài: “So sánh hai phân số khác mẫu số”. Giáo viên không cho học sinh tự tìm cách làm để cho hai phân số có mẫu số bằng nhau mà yêu cầu luôn học sinh quy đồng rồi so sánh tử số của 2 phân số mới. 
Hoặc bài: “Diện tích hình thoi”, giáo viên chỉ yêu cầu tính diện tích dựa vào hình chữ nhật, chứ không yêu cầu các em ghép hình rồi tự tìm cách tính dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng . Đồ dùng dạy học phong phú, lạ lẫm cũng thu hút học sinh chú ý vào bài giảng rất nhiều, đặc biệt những đồ dùng dạy học càng thu hút và huy động được nhiều các giác quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số giáo viên chỉ vẽ hình và cho học sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình: Không cho các em thao tác và như thế các em chỉ huy động được giác quan thị giác (nhìn lên bảng) và thính giác nghe cô giảng bài). Ví dụ bài: “So sánh hai phân số khác mẫu số”. Học sinh so sánh trên hai băng giấy sẽ dễ tiếp thu kiến thức hơn vì trực quan tác động được nhiều đến các giác quan của các em (có thêm xúc giác – tiếp xúc với băng giấy). Một số giáo viên ít dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị hay chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy thêm phong phú (sợ tốn thời gian) dẫn tới việc tiếp thu bài môn Toán chưa cao.
 2.2.2. Về phía học sinh
Năm học 2017 – 2018 có 32 học sinh; trong đó có 15 nữ; 17 nam. Tình hình HS cụ thể như sau: 
TT
Số HS
Nữ
Hoàn cảnh sống
Đặc điểm thể chất, sinh lý của HS
Ghi chú
Ỏ với bố mẹ
Ở với ông bà
GĐ khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo
Đảm bảo SK cân nặng, chiều cao
Sức khoẻ yếu
HSKT hoà nhập
1
32
15
30
2
0
29
3
Nghề nghiệp chính của các gia đình học sinh là nông nghiệp, chăn nuôi, buôn bán nhỏ.
 Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2017 - 2018 như sau:
Tổng số học sinh
 Điểm
( 9 - 10 )
 Điểm 
( 7 - 8 )
Điểm
( 5 - 6 )
Điểm
( Dưới 5 )
32
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
1
3,12
6
18,75
16
50
9
28,12
Qua giảng dạy tôi thấy, rất nhiều em do điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn, các bậc phụ huynh còn xem nhẹ việc học của con em ở cấp tiểu học. Việc học của các em ở nhà chưa được quan tâm thường xuyên, nên chủ yếu các em học ở trên lớp là chính. Vì thế việc học của các em gặp rất nhiều trở ngại. Đặc biệt chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm được lượng kiến thức thầy giảng, rất nhanh quên và kỹ năng tính toán chưa nhanh. Ví dụ: Khi học xong các cách giải toán về phân số các em làm rất lộn xộn: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi cộng tử số, có khi nhân phân số các em cũng quy đồngmặc dù khi học xong bài mới, ở lớp các em vân dụng làm bài rất tốt, nhưng khi làm luyện tập chung lại lộn xộn, tinh thần hợp tác học tập chưa cao, nhiều em còn chưa tự tin, học thụ động.
2.3. Các giải pháp, biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
	*Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò.
Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số”. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và . Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn đề mới. Nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau: 
- Hãy tính của .
Đây là một tình huống mà học sinh chưa thể thực hiện được ngay. Nhưng nếu học sinh chịu khó suy nghĩ, vận dụng kiến thức đã học (cấu tạo phân số) hoặc giáo viên hướng dẫn thì học sinh có thể thực hiện được. Ở đây, giáo viên muốn học sinh thực hiện câu hỏi trên để dẫn đến cách tính x .
- Hãy phân tích thành tổng của 4 phân số bằng nhau?
Ta có: = = = +++.
- Từ kết quả trên, hãy cho biết, của là bao nhiêu?
Ta có: của là ++ = .
- Hãy so sánh với kết quả của ? ( = ).
Kết luận: Ta nói tích của với = .
Viết = = .
Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.
* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” (tiếp theo).
 Bài toán: “ Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ” (Toán 4 trang 127).
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau: 
+ Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ).
Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.
*Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê.
Ví dụ bài: Diện tích hình thoi.
Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD = n (hình a)
- Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).
Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) = m = .
* Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c).
N
N
B
M
B
O
B
Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) = n = .
O
A
C
A
A
C
D
M
D
 ( Hình a )	 ( Hình b ) ( Hình c )	
Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học.
*Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ váo các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bằng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”.
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cả 15 000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5 000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”.
- Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: 
+ Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15 000 đồng ). Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng.
+ Nam nhiều hơn Hùng 5 000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia đôi phần còn lại: Học sinh lấy 5 000đồng cho Nam trước (đặt 5 que tính vào phần lớn).
- Còn mấy nghìn đồng ? (15 000 – 5 000 = 10 000 (đồng ).
- Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? (10 000 : 2 = 5 000 (đồng ).
- Bỏ vào hai phần mỗi phần 5 000 đồng (5 que tính)
- Vậy Hùng được mấy nghìn ? (5 000 đồng ).
- Còn Nam được mấy nghìn ? (5 000 + 5 000 = 10 000 (đồng).
- Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải. 
*Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. 
Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy
 – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: 
+ Tô màu vào băng giấy
+ Tô màu vào băng giấy
Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy.
Học sinh nêu: + = = .
Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số. 
*Khi dạy thực hành luyện tập Giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách:
 - Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. 
 - Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo.
Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác:
Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”
 + + = + ( + ) = + = 
Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện.
Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: 
Tính chất giao hoán của phép nhân.
Tính chất kết hợp của phép nhân.
Tính chất nhân một số với một tổng (Hoặc một tổng nhân với một số).
Tính chất nhân một hiệu với một số (Hoặc một số nhân với một hiệu).
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 7 = 70 (Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học Toán, học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Kết quả kiểm tra giữa HKI năm học 2017 – 2018:
Tổng số học sinh
 Điểm
( 9 - 10 )
 Điểm 
( 7 - 8 )
Điểm
( 5 - 6 )
Điểm
( Dưới 5 )
32
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
3
9,4
10
31,25
17
53,1
2
6,25
 Kết quả kiểm tra cuối HKI năm học 2017 – 2018:
Tổng số học sinh
 Điểm
( 9 - 10 )
 Điểm 
( 7 - 8 )
Điểm
( 5 - 6 )
Điểm
( Dưới 5 )
32
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
5
15,6
14
43,75
12
37,5
1
3,1
 	Kết quả kiểm tra giữa HKII năm học 2017 - 2018:
Tổng số học sinh
 Điểm
( 9 - 10 )
 Điểm 
( 7 - 8 )
Điểm
( 5 - 6 )
Điểm
( Dưới 5 )
32
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6
18,75
16
50
10
31,25
0
0
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
 Trong công tác giảng dạy, vai trò của người Thầy rất quan trọng, đặc biệt là mô

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_day_toan_lop_4_theo_huong_tich_cuc_hoa.doc