SKKN Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường trung học cơ sở Tân Dân
Trong quá trình phát triển của đất nước, sự nghiệp giáo dục luôn giữ vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hoá. Nói về vai trò của giáo dục, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, "đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển". Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều dự án đầu tư cho giáo dục phát triển. Cơ sở vật chất của các nhà trường được nâng lên từng bước, nhiều phòng học tranh tre nứa lá, bàn ghế xi măng bê tông đã được thay thế bằng những phòng học khang trang, đầy đủ bàn ghế đảm bảo quy cách. Các lực lượng xã hội cùng quan tâm hỗ trợ giáo dục trên nhiều phương tiện, việc phối kết hợp giáo dục giữa gia đình – nhà trường – xã hội ngày càng chặt chẽ, công tác thông tin tuyên truyền cũng đã góp phần không nhỏ tạo sự hỗ trợ thúc đẩy cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển.
Tuy nhiên, nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục của Nhà nước vẫn còn hạn hẹp, sự nhận thức về giáo dục của một bộ phận nhân dân, đặc biệt là cha mẹ học sinh vẫn còn hạn chế. Do đó việc huy động nguồn lực của nhân dân, của toàn xã hội để đẩy mạnh xã hội hóa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là vô cùng cần thiết và không ít khó khăn.
Là một Hiệu trưởng phụ trách nhà trường đóng trên địa bàn là một xã nghèo, tôi đã nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu. Với nguồn ngân sách chi thường xuyên cho các nhà trường cũng như việc huy động từ ngân sách địa phương chi cho giáo dục trên địa bàn là rất hạn hẹp. Nhu cầu đòi hỏi về nâng cấp cơ sở vật chất (CSVC), mua sắm trang thiết bị dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường là rất cần thiết. Bên cạnh đó, nhiều cha mẹ học sinh (CMHS) có mong muốn được tham gia hỗ trợ nhà trường nâng cấp, tu sửa CSVC để con em được hưởng thụ môi trường học tập tốt hơn cũng như đã có nhiều tiến bộ và nhiệt tình hơn trong công tác phối hợp cùng nhà trường giáo dục học sinh. Đứng trước những thực tế như vậy, tôi luôn trăn trở, làm thế nào để huy động được nhân dân địa phương, đặc biệt là cha mẹ học sinh cùng đồng thuận với các kế hoạch của nhà trường, giúp nhà trường từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời nâng cấp xây dựng cơ sở vật chất cũng như việc phối hợp tốt các tổ chức đoàn thể địa phương để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Và tôi hiểu, muốn vậy người Hiệu trưởng nhà trường phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
A. MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Trong quá trình phát triển của đất nước, sự nghiệp giáo dục luôn giữ vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hoá. Nói về vai trò của giáo dục, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, "đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển". Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều dự án đầu tư cho giáo dục phát triển. Cơ sở vật chất của các nhà trường được nâng lên từng bước, nhiều phòng học tranh tre nứa lá, bàn ghế xi măng bê tông đã được thay thế bằng những phòng học khang trang, đầy đủ bàn ghế đảm bảo quy cách. Các lực lượng xã hội cùng quan tâm hỗ trợ giáo dục trên nhiều phương tiện, việc phối kết hợp giáo dục giữa gia đình – nhà trường – xã hội ngày càng chặt chẽ, công tác thông tin tuyên truyền cũng đã góp phần không nhỏ tạo sự hỗ trợ thúc đẩy cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển. Tuy nhiên, nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục của Nhà nước vẫn còn hạn hẹp, sự nhận thức về giáo dục của một bộ phận nhân dân, đặc biệt là cha mẹ học sinh vẫn còn hạn chế. Do đó việc huy động nguồn lực của nhân dân, của toàn xã hội để đẩy mạnh xã hội hóa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là vô cùng cần thiết và không ít khó khăn. Là một Hiệu trưởng phụ trách nhà trường đóng trên địa bàn là một xã nghèo, tôi đã nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu. Với nguồn ngân sách chi thường xuyên cho các nhà trường cũng như việc huy động từ ngân sách địa phương chi cho giáo dục trên địa bàn là rất hạn hẹp. Nhu cầu đòi hỏi về nâng cấp cơ sở vật chất (CSVC), mua sắm trang thiết bị dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường là rất cần thiết. Bên cạnh đó, nhiều cha mẹ học sinh (CMHS) có mong muốn được tham gia hỗ trợ nhà trường nâng cấp, tu sửa CSVC để con em được hưởng thụ môi trường học tập tốt hơn cũng như đã có nhiều tiến bộ và nhiệt tình hơn trong công tác phối hợp cùng nhà trường giáo dục học sinh. Đứng trước những thực tế như vậy, tôi luôn trăn trở, làm thế nào để huy động được nhân dân địa phương, đặc biệt là cha mẹ học sinh cùng đồng thuận với các kế hoạch của nhà trường, giúp nhà trường từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời nâng cấp xây dựng cơ sở vật chất cũng như việc phối hợp tốt các tổ chức đoàn thể địa phương để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Và tôi hiểu, muốn vậy người Hiệu trưởng nhà trường phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục. Bằng kiến thức được bồi dưỡng quản lý cùng với đúc rút kinh nghiệm trong thực tế, những năm qua tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp xã hội hóa giáo dục, đặc biệt là 2 năm học vừa qua và đã có kết quả khả quan, chất lượng giáo dục nhà trường ngày một nâng lên, ngày càng tạo được lòng tin trong nhân dân địa phương. Do đó tôi mạnh dạn đúc rút sáng kiến kinh nghiệm: "Một số biện pháp xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường trung học cơ sở Tân Dân" với mong muốn được cùng bàn bạc, trao đổi và nhận được sự góp ý của các đồng chí quản lý trong ngành mà đặc biệt là cấp trung học cơ sở (THCS) để bản thân ngày càng làm tốt hơn công tác quản lí nhà trường, góp phần "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" theo Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Khóa XI. II. Mục đích nghiên cứu Với mục đích ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục và đảm bảo tính ổn định về phát triển giáo dục nhà trường. III. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về các biện pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục nhằm làm tốt công tác tăng cường CSVC đáp ứng cho nhu cầu giáo dục của nhà trường trong giai đoạn hiện tại. Đẩy mạnh phối kết hợp chặt chẽ với Hội khuyến học xã nâng bậc chất lượng giáo dục nhà trường một cách ổn định. IV. Phương pháp nghiên cứu - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tra cứu tài liệu, thống kê số liệu, tìm hiểu các khái niệm, các vấn đề, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Thực hiện phương pháp phân tích, đánh giá, nhận định để đi đến kết luận. - Nhóm nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phối hợp các phương pháp như quan sát, phỏng vấn, lập mẫu thống kê, điều tra, tổng kết kinh nghiệm các phương pháp này chủ yếu để điều tra tìm hiểu thực trạng các mặt của công tác giáo xã hội hóa giáo dục có ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục nhà trường. - Nhóm phương pháp hỗ trợ khác: như trưng cầu ý kiến cá nhân, thống kê, phân tích các thông tin ở các phạm vi khác có liên quan đến đề tài. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. Cơ sở lý luận Như chúng ta đã biết, xã hội hóa giáo dục là huy động và tổ chức các nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục, tạo ra phong trào mọi người học tập, xây dựng cả nước thành một xã hội học tập để mọi người dân cùng được hưởng thụ các thành quả do giáo dục đem lại. Huy động xã hội hóa giáo dục là quá trình nâng cao vai trò định hướng, kêu gọi sự tham gia đóng góp của nhân dân, của toàn xã hội về nhân lực, trí lực, vật lực và tài lực cho phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GD - ĐT). Quan điểm của Đảng ta về xã hội hóa giáo dục:“Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Quá trình giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người lao động có tri thức, có năng lực đáp ứng sự phát triển của kinh tế xã hội không chỉ là trách nhiệm của ngành GD - ĐT, mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, phải có sự tham gia tích cực, phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội. Sự tham gia phối hợp ấy phải được tiến hành có tổ chức, có khoa học và liên tục mới mang lại hiệu quả. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục - đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo”. Với quan điểm: "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển" thì đầu tư cho giáo dục sẽ là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước, tạo nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, với nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục còn rất ít ỏi như hiện nay thì ngoài việc đầu tư của Nhà nước cho giáo dục, rất cần có sự đóng góp của nhân dân, thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” bằng con đường xã hội hóa giáo dục. Những năm qua công tác xã hội hóa giáo dục nói chung trong toàn xã hội và ở trường THCS Tân Dân nói riêng đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, nhận thức chung về GD - ĐT trong nhân dân địa phương đã được nâng lên. Nhà trường cũng đã tích cực tham mưu huy động sự tham gia đóng góp trí lực, nhân lực, tài lực và vật lực để đạt trường chuẩn Quốc gia. Bộ mặt của nhà trường có nhiều khởi sắc, thu hút được sự quan tâm, chăm lo cho sự phát triển của nhà trường. Cơ sở vật chất nhà trường đã có nhiều thay đổi so với trước kia, bước đầu cũng đã đáp ứng tương đối nhu cầu dạy và học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường. Tuy đã có nhiều chuyển biến tiến bộ, song công tác xã hội hóa giáo dục ở nhà trường vẫn chưa phát huy một cách toàn diện sự tham gia của toàn thể cộng đồng. Công tác tuyên truyền cả bề rộng lẫn chiều sâu chưa thực sự có hiệu quả cao. Vẫn còn không ít CMHS có tư tưởng giao khoán chuyện dạy dỗ, giáo dục con cái cho thầy cô, nhà trường, nhận thức rất hạn chế, thờ ơ với sự phát triển giáo dục trong tình hình mới hiện nay. Nhận thức được tình hình chung thực tế tại địa phương, nhà trường và tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục. Tôi hiểu rõ, muốn phát triển nhà trường một cách bền vững thì phải ra sức làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục. Và công tác xã hội hóa giáo dục chỉ tốt khi CMHS, mọi người dân, mọi gia đình trên địa bàn địa phương nhận thức sâu sắc về giáo dục, cùng nhau chăm lo, hiến kế để trường học phát triển, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của ngành với tinh thần tự nguyện, tâm huyết nhất, khi ấy nhà trường mới là chỗ dựa đáng tin cậy của cộng đồng, góp phần giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người lao động có tri thức, công dân hữu ích cho xã hội và địa phương sau này. II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trường trung học cơ sở THCS Tân Dân đóng trên địa bàn xã Tân Dân là một xã nghèo bãi ngang ven biển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế nhiều người dân chưa nhận thức rõ trong việc cho con em đến trường. Không ít người trước đây còn có phần như chưa thật sự tin tưởng vào nhà trường, tin tưởng vào chất lượng giáo dục cũng như hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Một bộ phận cha mẹ học sinh vì quá khó khăn hiện tại mà đồng lòng cho con cái bỏ học đi lao động sớm, hoặc làm việc vặt rồi lêu lổng ở nhà. Các đoàn thể địa phương và chính quyền thì chưa vào cuộc cùng với nhà trường trong việc hỗ trợ, tuyên truyền nâng cao ý thức giáo dục trong nhân dân. Điều đó dẫn đến chất lượng giáo dục của nhà trường hạn chế, học sinh giỏi thì ít mà số học sinh yếu kém của nhà trường khá nhiều - tỷ lệ học sinh yếu kém luôn vượt trên yêu cầu của một trường chuẩn Quốc gia. Đặc biệt việc huy động xây dựng cơ sở vật chất nhà trường gặp nhiều khó khăn. Công tác huy động nâng cấp tu sửa cơ sở vật chất nhà trường rất hạn hẹp so với vùng trung tâm hoặc các trường lân cận. Khu giáo dục thể chất của nhà trường chưa có bờ tường ngăn cách với khu nhà dân và đường ra khu bờ sông Kênh Than. Hàng năm nhà trường luôn phải huy động tre, trúc làm rào ngăn cách. Song người dân luôn rẽ lối đi tắt qua trường để ra đường quốc lộ, một bộ phận học sinh lợi dụng trốn học qua các khu rào bị xé,... dẫn đến môi trường giáo dục nhà trường không thật sự an toàn, chất lượng giáo dục của nhà trường bị ảnh hưởng. Bàn ghế nhà trường được trang bị từ năm 2001 - 2002 nên đã hư hỏng nhiều, rất cần được thay thế. Bên cạnh đó là nhu cầu mua sắm trang thiết bị hỗ trợ dạy học của nhà trường là rất cần thiết bởi phòng Tin học các máy tính đã hư hỏng (máy tính được trang bị từ dự án ADB năm 2002); Trong khi với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay thì nhu cầu mua máy chiếu, ti vi đáp ứng cho giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin là rất cần thiết,... Hơn nữa nhà trường đẩy mạnh cuộc vận động "Hai không", do đó tỷ lệ học sinh yếu kém lộ rõ khá nhiều, trong khi hầu hết gia đình những học sinh yếu kém lại bi quan hoặc do hoàn cảnh quá khó khăn nên phó mặc nhà trường, ít quan tâm, ít phối hợp chặt chẽ với thầy cô để giáo dục con em. Dẫn đến chất lượng giáo dục nhà trường thấp, tình trạng học sinh bỏ học tương đối lớn, đặc biệt là kết quả huy động nguồn kinh phí xã hội hóa giáo dục xây dựng cơ sở vật chất gặp nhiều khó khăn và kinh phí rất hạn chế, chất lượng học sinh mũi nhọn của nhà trường chỉ nằm trong tốp trung bình của huyện, học sinh giỏi cấp tỉnh thì hầu như không có. Cụ thể: Các chỉ tiêu Các năm học 2010 - 2011 2011 - 2012 2012 - 2013 Số học sinh đạt giải cấp huyện 12 20 17 Số học sinh giỏi cấp tỉnh 0 0 1 giải Được xếp loại đồng đội HSG trong 35 trường THCS 17 14 15 Tỷ lệ học sinh có học lực yếu, kém 9,4% 5% 6,7% Mặc dù vẫn biết nếu có CSVC tốt, đặc biệt là máy chiếu để giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), nâng chất lượng bài giảng lên sinh động hơn thì học sinh sẽ hứng thú học tập hơn rất nhiều và từ đó chất lượng giáo dục sẽ được nâng lên một bước. Song với nguồn kinh phí trong ngân sách rất hạn hẹp, số kinh phí huy động từ Hội CMHS gặp nhiều khó khăn trong việc hỗ trợ mua sắm tu sửa cơ sở vật chất cho nhà trường. Không chỉ số lượng học sinh giỏi (HSG) cấp tỉnh hạn chế mà phụ huynh còn xem chất lượng HSG cấp tỉnh là việc của một số trường cụm trung tâm hoặc trường Lương Chí và việc xây dựng CSVC nhà trường là của Nhà nước, của ủy ban nhân dân xã, ... nên chưa vào cuộc với trách nhiệm cộng đồng cùng nhà trường chăm lo CSVC cũng như nâng cao chất lượng giáo dục cho con em. Bên cạnh đó nhà trường cũng chưa thật sự làm tốt công tác phối hợp giáo dục với các đoàn thể địa phương mà đặc biệt là hội khuyến học trong công tác tuyên truyền, vận động nên chất lượng giáo dục của nhà trường chưa đạt như mong muốn. Do đó từ năm học 2013 – 2014 tôi đã từng bước thực hiện các biện pháp phối hợp tốt với Hội CMHS và Hội khuyến học xã, các đoàn thể chính trị xã hội địa phương để huy động các nguồn lực đáp ứng dần cho giáo dục của nhà trường phát triển. Đặc biệt năm học 2015 - 2016 là năm học toàn ngành GD&ĐT tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" thì yêu cầu về nâng cấp CSVC, nâng cao chất lượng giáo dục giữ vững danh hiệu của một trường đạt chuẩn Quốc gia của nhà trường lại càng cấp thiết. III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Ngay từ đầu năm học tôi tiếp tục đúc rút kinh nghiệm trong công tác quản lí, phát huy những ưu điểm đã làm tốt, khắc phục những tồn tại của năm học trước về công tác xã hội hóa giáo dục, quyết tâm làm tốt công tác huy động các nguồn lực xây dựng nhà trường, nâng cao chất lượng giáo dục và cũng là thực hiện lộ trình để nhà trường tiếp tục được kiểm tra công nhận đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn tiếp theo 2016 - 2021. Năm học 2015 - 2016, nhà trường có 10 lớp có 349 học sinh (HS). Cụ thể: Khối 6: Có 3 lớp = 91 HS, Khối 7: có 3 lớp = 90 HS; Khối 8: có 2 lớp = 85 HS; Khối 9: có 2 lớp = 83 HS. Với tổng số cán bộ giáo viên nhân viên là 24 người. Phân tích thuận lợi, khó khăn của nhà trường ngay từ đầu năm học, tôi nhận thấy: - Thuận lợi: Trong những năm gần đây chất lượng giáo dục của nhà trường đã và đang có chuyển biến tích cực. Nhà trường đã đạt chuẩn Quốc gia nên CSVC về cơ bản cũng như cơ cấu đội ngũ giáo viên nhìn chung đảm bảo cho công tác dạy và học. Bên cạnh đó là sự quan tâm ngày một tốt hơn của đội ngũ lãnh đạo địa phương trong việc tu bổ, nâng cấp xây dựng CSVC cho các nhà trường được nâng lên một bước. Nhà trường có đội ngũ giáo viên có tay nghề tương đối vững vàng, nhiệt tình trong công tác. Ý thức của nhân dân địa phương, của CMHS về chăm lo cho giáo dục ngày một tốt hơn. - Khó khăn: Nhà trường đã được kiểm tra và công nhận đạt chuẩn Quốc gia từ năm 2011. Sau 4 năm cơ sở vật chất ngày một xuống cấp, mà yêu cầu của giáo dục ngày càng cao, vấn đề an ninh trật tự trong nhà trường sẽ bị ảnh hưởng nếu tường rào không an toàn; nhu cầu giảng dạy bằng máy chiếu của giáo viên cũng như đáp ứng yêu cầu học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục xứng tầm với một trường chuẩn Quốc gia ngày một cao. Đứng trước tình hình đó, là một hiệu trưởng nhà trường tôi thấy mình cần phải có những giải pháp để huy động xây dựng cơ sở vật chất nhà trường và hơn nữa là nâng bậc chất lượng đại trà, đặc biệt là chất lượng mũi nhọn. Tôi đã trăn trở và hiểu rõ rằng, mặc dù Tân Dân là xã nghèo, 80% dân số của xã là sống bằng nghề nông, lao động tay nghề thấp. Tuy vậy trong những năm gần đây, bằng sự cố gắng của tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường, chất lượng giáo dục của nhà trường đã được nâng lên từng bước. Do đó cũng đã tạo được lòng tin trong nhân dân, Hội Cha mẹ học sinh cũng đã ngày một quan tâm tốt hơn, phối hợp tốt hơn với nhà trường trong việc hỗ trợ tu sửa, nâng cấp cơ sở vật chất và đấu mối phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, địa phương ngày càng chặt chẽ, đặc biệt việc dùng sổ liên lạc điện tử sau 1 năm sử dụng tôi thấy có hiệu quả tốt trong việc đấu mối kịp thời giáo dục học sinh chậm tiến. Dựa trên những thuận lợi cơ bản hiện có, tôi hiểu rằng để giữ vững danh hiệu trường chuẩn, để được tiếp tục công nhận đạt chuẩn giai đoạn 5 năm tiếp theo một cách liên tục thì song song với việc cơ sở vật chất xuống cấp theo thời gian, nhà trường luôn phải có một kế hoạch mang tính chiến lược về nâng cấp, tu bổ, xây dựng cơ sở vật chất và tạo được các điều kiện hỗ trợ để chất lượng giáo dục luôn phải đảm bảo các tiêu chí của một trường đạt chuẩn Quốc gia. Để đáp ứng được điều đó, tôi đã chỉ đạo ban cán bộ nhà trường họp bàn, xây dựng kế hoạch chiến lược, tầm nhìn đến 2020 với lộ trình thực hiện nâng cấp CSVC cùng các chỉ tiêu chất lượng phải đạt được và phải có tính khả thi cao. Tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp xã hội hóa giáo dục để nâng cấp cơ sở vật chất, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Bám sát các tiêu chuẩn của một trường chuẩn Quốc gia, tôi tích cực tuyên truyền, tham mưu cho lãnh đạo địa phương xây dựng CSVC nhà trường theo yêu cầu của giáo dục phù hợp với điều kiện hiện có của địa phương, kêu gọi các tổ chức, các nhà hảo tâm trong và ngoài địa phương hỗ trợ kinh phí thưởng cho giáo viên và học sinh có thành tích cao trong học tập, như các Hội đồng hương của xã ở huyện, Hội CMHS, UBND xã hỗ trợ kinh phí, tổ chức đưa học sinh có thành tích cao đi thăm quê Bác. Hội Đồng hương Tân Dân ở Hà nội tổ chức đón tiếp đón học sinh nhà trường khi các em ra Hà Nội thăm lăng Bác, ... nhằm khuyến khích, động viên các em ngày càng học tốt hơn, nâng chất lượng giáo dục nhà trường góp phần giữ vững chất lượng của một trường đạt chuẩn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi chỉ xin đưa ra 2 biện pháp xã hội hóa giáo dục để tăng cường CSVC và phối hợp giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội để nâng bậc chất lượng giáo dục đại trà, nâng cao chất lượng mũi nhọn HSG, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém mà bản thân đã áp dụng tại trường từ năm học 2013 - 2014; và nâng lên một bước ở năm học 2015 - 2016. 1. Đẩy mạnh công tác tham mưu, tuyên truyền giáo dục thông qua việc tổ chức tốt cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm học: 1.1. Lập kế hoạch huy động các nguồn lực, vật lực nhằm nâng cấp, tu sửa, mua sắm trang thiết bị dạy học Thông thường trước khi bước vào năm học mới, tại thời điểm tháng 7 hàng năm, song song với việc tuyển sinh đầu cấp, ban cán bộ nhà trường tổng hợp nhu cầu mua sắm trang thiết bị, tu sửa, nâng cấp CSVC cho năm học mới. Dựa trên nhu cầu biên chế của năm học, kế hoạch chiến lược, yêu cầu của Ngành và tình hình thực tế của địa phương đơn vị, ban cán bộ họp bàn, Hiệu trưởng chỉ đạo xây dựng một bản kế hoạch đề nghị tu sửa, mua sắm bổ sung cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu dạy và học trình lên Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã, Ban chấp hành hội Cha mẹ học sinh nhà trường. Trong cuộc họp giữa Ban thường vụ Đảng ủy xã và 3 Hiệu trưởng của 3 nhà trường thuộc 3 cấp học đóng tại địa phương. Ban thường vụ Đảng ủy sẽ được nghe các Hiệu trưởng trình bày để nắm bắt về nhu cầu tu sửa, mua sắm cơ sở vật chất nhà trường trong năm học mới. Về phía trường mình, tôi lập tất cả các hạng mục cần tu sửa mua sắm (dù là những vấn đề nhỏ như mua hóa chất, mẫu vật thực hành, tu sửa nhỏ,... mà những mục này thường là kinh phí nghiệp vụ của nhà trường tự chi) và cũng lập rõ trong tổng các mục cần bổ sung thì về phần nhà trường sẽ đảm nhận được những mục nào, tương ứng là bao nhiêu tiền. Còn lại những mục nào là đề nghị xã và Hội Cha mẹ học sinh giúp sức. Với cách làm như vậy về phía xã và Hội Cha mẹ học sinh thấy rõ trách nhiệm của mình phải cùng chăm lo với nhà trường và cũng thấy được tổng kinh phí để chi cho tu sửa, mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trong nhà trường là rất lớn, có lộ trình rõ ràng nên trách nhiệm mỗi tổ chức đều phải có đóng góp và chăm lo cho sự nghiệp giáo dục xã nhà (tránh tình trạng những năm trước đây, nhà trường không lập phần mục cần mua sắm với số kinh phí mà nhà trường sẽ đảm nhiệm khiến phía xã có phần phó mặc cho Hội Cha mẹ học sinh và nhà trường). Cuộc họp sẽ thống nhất được với Ban thường vụ xã về phương hướng, cách làm, mục nào phải dừng lại cho năm học sau (vì kinh phí hiện tại của các tổ chức không
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_xa_hoi_hoa_giao_duc_nham_nang_cao_chat.doc