SKKN Một số biện pháp ứng dụng CNTT trong việc thiết kế bài giảng điện tử môn khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

SKKN Một số biện pháp ứng dụng CNTT trong việc thiết kế bài giảng điện tử môn khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

Bước sang thế kỉ XXI, sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của khoa học công nghệ, kinh tế và xã hội trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi con người phải phát triển toàn diện về mọi mặt, có khả năng xử lý những phát sinh trong cuộc sống một cách có hiệu quả. Xuất phát từ nhu cầu thực tế ấy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu phấn đấu cho nghành giáo dục nói chung là: Giáo dục ‘‘đức dục, trí dục, Thể dục và mĩ dục” ( Theo Nghị Quyết Trung Ương 02).

 Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là xây dựng nền tảng ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người và phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nghành giáo dục mầm non đã và đang có những thay đổi tích cực, đặc biệt là thay đổi trong cách tiếp cận nội dung, phương pháp, hình thức nuôi dạy trẻ, một trong những đổi mới trên là đổi mới trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ, chúng ta đã hướng vào đứa trẻ. Lấy trẻ em làm trung tâm của quá trình dạy học, phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ trong hoạt động. Giáo viên là điểm tựa, là thang đỡ giúp cho sự phát triển mọi mặt của trẻ, trẻ em có năng lực giải quyết các vấn đề, các tình huống có ý nghĩa đối với cuộc sống của chúng và dễ dàng hòa nhập với xã hội.

Phát triển nhận thức, đặc biệt là hình thành thái độ nhận thức và kĩ năng nhận thức cho trẻ Mẫu giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình giáo dục ở trường mầm non. Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, hoạt động khám phá khoa học có vai trò vô cùng quan trọng, là quá trình trẻ tham gia hoạt động khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. Thông qua đó giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết, trí tò mò và trau dồi các kỹ năng: Quan sát, so sánh, phân loại, suy luận chia sẻ thông tin, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định. Có thể coi khám phá khoa học là bộ môn không thể thiếu, không thể xem nhẹ với công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non.

 

doc 23 trang thuychi01 31256
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp ứng dụng CNTT trong việc thiết kế bài giảng điện tử môn khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH
TRƯỜNG MẦM NON THẠCH CẨM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CNTT TRONG VIỆC THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ MÔN KHÁM PHÁ KHOA HỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thoa
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thạch Cẩm
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn 
THẠCH THÀNH, NĂM 2016
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I. MỞ ĐẦU
Trang: 3
1. Lý do chọn đề tài 
Trang: 3
2. Mục đích nghiên cứu
Trang : 4
3. Đối tượng nghiên cứu
Trang : 4
4. Phương pháp nghiên cứu
Trang: 4
II NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trang: 5
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trang: 5
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng
Trang: 7
3. Biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trang: 10
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Trang : 19
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Trang: 21
1. Kết luận.
Trang: 21
2. Kiến nghị
Trang: 21
Tài liệu tham khảo
Trang: 23
 Phụ lục
Trang: 23
I. MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài
	Bước sang thế kỉ XXI, sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của khoa học công nghệ, kinh tế và xã hội trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi con người phải phát triển toàn diện về mọi mặt, có khả năng xử lý những phát sinh trong cuộc sống một cách có hiệu quả. Xuất phát từ nhu cầu thực tế ấy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu phấn đấu cho nghành giáo dục nói chung là: Giáo dục ‘‘đức dục, trí dục, Thể dục và mĩ dục” ( Theo Nghị Quyết Trung Ương 02).
	Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là xây dựng nền tảng ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người và phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nghành giáo dục mầm non đã và đang có những thay đổi tích cực, đặc biệt là thay đổi trong cách tiếp cận nội dung, phương pháp, hình thức nuôi dạy trẻ, một trong những đổi mới trên là đổi mới trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ, chúng ta đã hướng vào đứa trẻ. Lấy trẻ em làm trung tâm của quá trình dạy học, phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ trong hoạt động. Giáo viên là điểm tựa, là thang đỡ giúp cho sự phát triển mọi mặt của trẻ, trẻ em có năng lực giải quyết các vấn đề, các tình huống có ý nghĩa đối với cuộc sống của chúng và dễ dàng hòa nhập với xã hội.
Phát triển nhận thức, đặc biệt là hình thành thái độ nhận thức và kĩ năng nhận thức cho trẻ Mẫu giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình giáo dục ở trường mầm non. Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, hoạt động khám phá khoa học có vai trò vô cùng quan trọng, là quá trình trẻ tham gia hoạt động khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. Thông qua đó giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết, trí tò mò và trau dồi các kỹ năng: Quan sát, so sánh, phân loại, suy luận chia sẻ thông tin, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định. Có thể coi khám phá khoa học là bộ môn không thể thiếu, không thể xem nhẹ với công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non.
Trong thực tiễn giáo dục hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quá trình dạy trẻ nói chung và thiết kế giáo án điện tử môn khám phá khoa học nói riêng được giáo viên đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên cách thức tiến hành và hiệu quả của việc xây dựng một giáo án điện tử môn khám phá khoa học còn rất hạn chế, dẫn đến trẻ tiếp thu kiến thức một cách máy móc, không biết vận dụng chúng vào thực tế cuộc sống, trẻ chưa thực sự hứng thú với giờ học, phần lớn trẻ còn lúng túng khi tiếp xúc với cái mới, còn nhiều trẻ lười suy nghĩ không muốn tìm hiểu, suy đoán, ngại lập luận và không dám đưa ra quyết định của bản thân...và thường đầu hàng trước những câu trả lời khó, những tình huống suy luận và chờ bạn khác trả lời. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành nhân cách độc lập, tự tin và tính tích cực sáng tạo ở trẻ. 
Trên thực tế ở các trường mầm non nói chung, trường mầm non Thạch Cẩm nói riêng, khi tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ, nhà trường, giáo viên chưa có điều kiện cho trẻ đi tham quan thực tế,vì vậy khi sử dụng CNTT giáo viên có thể khai thác các thông tin trên mạngmột cách hiệu quả. Thông qua những giờ học có sử dụng các giáo án điện tử, những hình ảnh đẹp, quen thuộc gần gũi, được chuyển tới trẻ một cách linh hoạt và nhẹ nhàng, góp phần hình thành cho trẻ nhận thức về cái đẹp và thế giới xung quanh qua đó trẻ biết yêu cái đẹp, mong muốn tạo ra cái đẹp trong cuộc sống và những kỹ năng sống cần thiết đối với lứa tuổi mầm non nói chung trẻ Mẫu giáo lớn 5-6 tuổi nói riêng. 
Có thể nói việc biết sử dụng và ứng dụng CNTT vào dạy học sẽ giúp cho người học dễ hiểu và người dạy truyền tải được kiến thức mong muốn.Tuy nhiên khả năng sử dụng phần mềm microsoft powerpoint trong việc thiết kế bài giảng điện tử của giáo viên trường tôi và cả bản thân tôi còn rất hạn chế, phần lớn giáo viên chỉ biết dạy các giáo án có sẵn hay copy từ trên mạng, chưa biết chèn âm thanh không biết cắt, ghép hay lồng ghép tranh này với tranh khác theo mong muốn vào bài giảng vì vậy mà bài giảng chưa gây được sự chú ý với trẻ. Để trẻ em tham gia vào hoạt động học tập có hiệu quả cao, quá trình học tập phải được thực hiện thông qua những bài giảng có nội dung phong phú, hình ảnh trực quan sinh động và chính xác và phù hợp với độ tuổi. 
 Trẻ Mẫu giáo lớn là độ tuổi cuối bậc học ở trường mầm non, vì vậy cần trang bị không những về kiến thức mà còn rèn luyện cho trẻ các kỹ năng sống, đểtrẻ có vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng cơ bản để bắt đầu cho các cấp học tiếp theo. Để đạt được điều đó, đòi hỏi mỗi giáo viên mầm non cần tích cực sáng tạo trong việc thay đổi các hình thức học tập, không ngừng nâng cao kiến thức dành thời gian nghiên cứu các phần mềm ứng dụng để từ đó tìm ra các giải pháp, cách thức, phương thức giảng dạy làm cho giờ học trở nên nhẹ nhàng. Trẻ được trau dồi tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng lại nhớ lâu, khắc sâu và hình thành tốt trí nhớ có chủ định, tạo nên những lớp chủ nhân tương lai của đất nước vừa có đức vừa có tài. 
 Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn đề tài:“Một số biện phápứng dụng công nghệ thông tin trong việc thiết kế bài giảng điện tử môn khám phá khoa học cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi”,ở trường Mầm non Thạch Cẩmđể làm đề tài nghiên cứu.
 2. Mục đích nghiên cứu 
	Qua việc ứng dụng CNTT giúp trẻ lĩnh hội trọn vẹn kiến thức môn khám phá khoa học,nhằm kích thích hứng thú, giúp cho trẻ nhanh nhẹn, khéo léo. Thông qua đó phát triển các giác quan, rèn luyện khả năng ghi nhớ có chủ định và kỹ năng giao tiếp của trẻ, đồng thời các bạn bè đồng nghiệp có thể tham khảo và sử dụng, qua đó nâng cao khả năng sử dụng tin học cho bản thân.
3. Đối tượng nghiên cứu
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thiết kế bài giảng điện tử môn khám phá khoa học cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Thạch Cẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu	
4.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp đọc, ghi chép, phân tích hệ thống và khái quát hóa những nguồn tài liệu có liên quan tới đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
4.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
 4.2.1 Phương pháp quan sát 
Phương pháp này được sử dụng để thu thập thông tin về việc tổ chức các bài giảng điện tử nhằm kích thích hứng thú và mức độ nhận thức của trẻ trong trường mầm non Thạch Cẩm. 
 4.2.2 Phương pháp đàm thoại
Phương pháp này được tiến hành thông qua các cuộc trò chuyện, và những buổi rút kinh nghiệm về các giờ dạy ở trường để biết được thực trạng sử dụng CNTT trong việc thiết kế bài giảng điện tử môn khám phá khoa học của giáo viên.
 4.2.3 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của hoạt động là phân tích sự phát triển tâm sinh lý và nhận thức của trẻ thông qua những giờ tổ chức hoạt động khám phá khoa học của trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi, phương pháp này được sử dụng để nhận ra được trẻ đã có khả năng đến đâu những gì đạt được và chưa đạt được có liên quan đến đề tài từ đó tìm ra cách thức để giải quyết và khích lệ qua đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về: Đức – Trí – Thể - Mỹ. 
4.2.4 Phương pháp thống kê 
Phương pháp này được sử dụng để thống kê và đưa ra các số liệu cụ thể về những tiêu chí đạt hay chưa đạt của trẻ để từ đó tìm kiếm, đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng và nâng cao chất lượng dạy và học.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận: 
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, khám phá khoa học với trẻ nhỏ là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên, thế giới xã hội. Đó là quá trình quan sát so sánh, phân loại thử nghiệm, dự đoán, suy luận thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định. Mục tiêu của khám phá khoa học dành cho trẻ mầm non là nuôi dưỡng, phát triển trí tò mò tự nhiên của trẻ về thế giới, để qua đó mở rộng, nâng cao hiểu biết và trau dồi các kĩ năng cần thiết trên trẻ.
Bước sang độ tuổi Mẫu giáo, nhu cầu giao tiếp của trẻ lớn hơn, trẻ vẫn đang trong thời kỳ “phát cảm” ngôn ngữ. Vốn từ tiếp tục tăng nhanh không chỉ về danh từ mà cả động từ, tính từ, liên từ. Theo nghiên cứu của Carrey (1977) và Dolaghan (1985) thì trẻ 18 tháng tuổi mới biết khoảng 50 từ nhưng đến 5-6 tuổi có thể tích lũy được 8.000 đến 14.000 từ, trung bình mỗi ngày trẻ có khoảng từ 5 đến 8 từ mới. Tư duy của trẻ có bước ngặt cơ bản, bên cạnh tư duy trực quan hành động thì tư duy trực quan hình tượng được phát triển và chiếm ưu thế, thế giới biểu tượng trở nên chính xác hơn, kiểu tư duy trực quan sơ đồ đã xuất hiện. Vì vậy mà trẻ thích tìm hiểu và khám phá, trẻ độ tuổi này thường đưa ra những câu hỏi như: Đây là cái gì? Nó dùng để làm gì? Tại sao lại có màu này mà không phải màu kia?hay những câu như: Điều gì sẽ xảy ra? Vì sao điều đó xảy ra?... Do đó việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với trẻ mầm non đặc biệt là trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi . 
Xuất phát từ văn bản chỉ đạo của nhà nướccông văn số 4987/BGĐT – CNTT ngày 2/08/ 2012 của Bộ giáo dục và đào tạo về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm 2012- 2013 có nội dung như sau: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý giáo dục chỉ đạo ứng dụng CNTT trong học tập và giảng dạy theo hướng người học có thể học qua nhiều nguồn liệu, hướng dẫn cho người học biết tự khai thác và ứng dụng CNTT vào quá trình học tập của bản thân, thay vào việc chỉ đạo giáo viên ứng dụng CNTT trong giảng dạy trong tiết giảng”. Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở trường mầm nonmà đặc biệt là dạy môn khám phá khoa học cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi hoàn toàn có ích và mang lại những kết quả tốt cho việc phát triển ngôn ngữ,nhận thức, thẩm mỹ, kỹ năng sống cũng như nhiều mặt có lợi khác ở trẻ mầm non.
Tuy nhiên, soạn một giáo án điện tử cũng đòi hỏi những quy tắc nhất định nhằm tạo nên hiệu quả khi soạn giáo án điện tử. Nên lưu ý trong việc sử dụng các hiệu ứng (Effect oftions), vì nếu dùng không hợp lý sẽ không mang lại hiệu quả tốt cho bài dạy mà còn gây phản tác dụng. Nên dùng hiệu ứng vừa phải, phù hợp, làm nổi bật nội dung cần chuyển tải. Nếu dùng nhiều hiệu ứng không cần thiết sẽ gây mất tập trung, trẻ sẽ không quan tâm tới nội dung mà cô cần tryển tải nữa. Các phông nền cũng nên chọn đơn giảnphù hợp nội dung bài giảng và làm nổi bật được nội dung chính. 
Hiện nay một số quốc gia phát triển như: Anh, Mỹ, Nhật Bản hay Trung Quốc việc ứng dụng CNTT vào trong việc dạy học cho trẻ mầm non đang được quan tâm hàng đầu. Các phần mềm powerpoint, kidsmart hay pixkid trong dạy học đã được sử dụng từ năm 2000 và mang lại những kết quả tốt. Trong nước, việc ứng dụng các phần mềm tin học vào dạy trẻ mầm non đã và đang được sử dụng rông rãi đặc biệt là ở các thành phố lớn từ năm 2008 và ngày càng được mở rộng đến các vùng nông thôn.Thực tế ở trường mầm non Thạch Cẩm việc sử dụng CNTT mà đặc biệt là ứng dụng các phần mềm tin học vào dạy trẻ nói chung và khám phá khoa học nói riêng cũng được ban giám hiệu và giáo viên quan tâm, một số giáo viên đã chủ động dạy trên powerpoint tuy nhiên kết quả đạt được chưa cao. Nguyên nhân là do giáo viên chưa tự mình thiết kế được bài giảng, chưa biết cách chèn hình ảnh hay âm thanh thích hợp vào trong giáo án. 
Ví dụ: Khi cho trẻ trò chuyện về một số con vật nuôi trong gia đình giáo viên muốn chèn hình ảnh con gà để nó gần gũi với trẻ và tiếng gáy của nó nhưng bản thân giáo viên và các bạn đồng nghiệp không làm được, trong khi đó giáo án copy thường không chạy được nhạc, lỗi font chữ. Vì vậy nên việc tìm hiểu và thiết kế một giáo án điện tử mà đặc biệt là giáo án điện tử môn khám phá khoa học cho trẻ 5 – 6 tuổi là cần thiết, thông qua đó trẻ dễ dàng tiếp nhận các thông tin bài học.
Cho trẻ tiếp cận với CNTT và ứng dụng CNTTvào trong giảng dạy ở trường mầm non được diễn ra rất linh hoạt thông qua các hoạt động của trẻ ở trường. Việc lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen và tiếp cận dựa trên đặc điểm tình hình và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, dựa trên nguyên tắc “ Lấy trẻ làm trung tâm” giáo viên là thang đỡ, do đó buộc người giáo viên phải lựa chọn hình thức cho phù hợp với trẻ làm sao để trẻ dễ dàng tiếp thu qua đó kích thích hứng thú và nhận thức của trẻ làm cho trẻ yêu thích giờ học. Vì vậy mà ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy là cần thiết và là yếu tố tạo tiền đề cho sự thành công của đứa trẻ sau này.Qua giảng dạy giờ khám phá khoa học của trẻ 5 -6 tuổi, tôi nhận thấy ở độ tuổi này, trẻ rất thích học hỏi khám phá và nói lên suy nghĩ của bản thân nên việc ứng dụng CNTT vào giờ khám phá khoa học của trẻ 5 -6 tuổi sẽ giúp cho đứa trẻ phát triển các giác quan khả năng phán đoán, tư duy, kỹ năng ghi nhớ có chủ định. Một số giáo án kết hợp CNTT (sử dụng máy chiếu, các chương trình photoshop, flash, power point) sẽ giúp trẻ có cái nhìn sinh động hơn, hứng thúhơn , tò mò hơn.
2. Thực trạng vấn đề:
Năm học 2015-2016, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo lớn 3với tổng số trẻ là 43. Lớp học được nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng, đồ chơi, đầu đĩa, màn ti vi, đàn, vi tínhphục vụ trẻ hoạt động. Tuy nhiên trong quá trình thực tiễn tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1 Thuận lợi
Đối với địa phương và nhà trường: Lãnh đạo địa phương cùng với ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến việc đầu tư mua sắm cơ sở vật chất, đến nay các lớp đã tương đối đầy đủ đồ dùng: Trường đã có 1 máy chiếu và mỗi lớp đều được trang bị ti vi, đàn oocgan, có mạng Wifi để giáo viên thuận lợi cho việc tìm kiếm các tư liệu hình ảnh phục vụ cho bài dạy . Cảnh quan nhà trường thoáng mát, có cây che bóng mát, cây cảnh góp phần rất lớn cho trẻ quan sát, nhặt lá rụng, để chơi các trò chơi và thực hiện một số yêu cầu của bài giảng.Trường lớp khang trang sạch sẽ, thoáng mát nằm ở trung tâm địa bàn của các thôn nên tiện lợi cho việc giao thông đi lại, bàn ghế đầy đủ cho trẻ ngồi học, có giá để đồ dùng đồ chơi.Nhà trường thường xuyên tổ chức chuyên đề, thao giảng, hội giảng, dự giờ thăm lớp bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn.
Đối với bản thân và giáo viên trong trường: Bản thân tôi và các giáo viên trong trường đều trang bị máy tinh riêng cho cá nhân để thuận lợi cho việc soạn giáo án. Tôi đã từng sử dụng giáo án điện tử khi còn là sinh viên và đã thiết kế một số giáo án điện tử vì vậy tôi đã có một số kinh nghiệm thiết kế giáo án mà đặc biệt giáo án môn khám phá khoa học.100% giáo viên có trình độ trung cấp trở lên, luôn giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm.
Đối với phụ huynh: Cùng với nhà trường đầu tư mua sắm cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình học tập của trẻ ở trường, thường xuyên trao đổi tình hình con em mình với giáo viên.	
Đối với trẻ: Đa số trẻ đã học qua lớp 3-4 tuổi và lớp 4-5 tuổi. Trẻ ngoan, có nề nếp, nhiều cháu hứng thú, tích cực trong giờ hoạt động khám phá khoa học.	
2.2 Khó khăn	
Bên cạnh những thuận lợi cũng có không ít khó khăn gặp phải.
Đối với địa phương và nhà trường: Bước vào đầu năm học ban giám hiệu và tổ chuyên môn nhà trường đã tổ chức các buổi thăm lớp dự giờ cho giáo viên trong trường, khi đến dự ở các lớp tôi thấy ở một số lớp giáo viên đã sử dụng giáo án điện tử môn khám phá khoa học để dạy trẻ tuy nhiên kết quả đạt được chưa cao, giáo viên chưa tự mình thiết kế được giáo án, chưa biết cách chèn hình ảnh hay lồng ghép một đoạn nhạc. Khi trẻ trả lời giáo viên chưa biết cách chèn các âm thanh “khen” “chê”, để thu hút sự chú ý của trẻ và để bài dạy sinh động. Đồ dùng học tập trong lớp mà đặc biệt là đồ dùng cho môn khám phá khoa học chưa được đổi mới thường xuyên đôi lúc trẻ nhàm chán không hứng thú khi sử dụng, mặc dù trong những năm gần đây giáo viên cũng rất chủ trọng đến việc làm đồ dùng dạy học nhưng hiệu quả chưa cao, thời gian sử dụng ngắn
Ví dụ : Chủ đề: Nghề nghiệp- Nghề: giúp đỡ cộng đồng
Khi cho trẻ trò chuyện về công việc, đồ dùng của các chú bộ đội với một giáo án thông thường trẻ chỉ nghe cô nói mà không biết được các chú đi những đâu? làm những công việc gì? cuộc sống của các chú như thế nào? Nhưng khi giáo viên sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể chèn video, hình ảnh công việc của các chú cũng như đồ dùng phục vụ luyện tập vào trong các slide cho trẻ quan sát như vậy giúp trẻ khắc sâu hơn, nhớ được nội dung bài học một cách dễ dàng hơn.
Đối với bản thân và giáo viên: Bản thân tôi và các bạn đồng nghiệp khi thiết kế giáo án điện tử mỗi người chưa qua trường, lớp điện tử, viễn thông, CNTT nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng máy tính cũng như thiết kế giáo án điện tử.
Đối với phụ huynh: Còn một số phụ huynh chưa nắm bắt được nội dung cụ thể môn học nên chưa nhiệt tình cùng cô sưu tầm vật liệu liên quan đến môn học, chủ đề vì thế nên chưathực sự quan tâm đến việc học môn khám phá khoa học của trẻ, học cho rằng môn học này không cần thiết họ chi mong sao con em mình đến trường ngày nào, giờ nào cũng được, cô cho học chữ cái với chữ số là được.
 Đối với trẻ: Số trẻ trong lớp vẫn chưa đồng đều về chất lượng, trẻ em là người dân tộc thiểu số chiếm 80%, số đông trẻ còn nhút nhát trong khi thể hiện suy nghĩ, tư duy của mình.Khi trả lời các câu hỏi của cô thường không tự tin.
Ví dụ: tay thì gãi đầu, tay gãi cổ, có nhiều trẻ còn khóc khi phải đứng lên trả lời vv...nhận thức của trẻ không đồng đều. 
Tất cả những khó khăn trên còn ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của trẻ, các tiết dạy sử dụng giáo án thông thường chưa gây được sự chú ý của trẻ, nhiều trẻ chưa tiếp nhận được nội dung mà giáo viên muốn truyền tải, kết quả hoạt động chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của môn học, của chương trình đề ra. 
Từ thực trạng trên cho thấy trẻ vẫn chưa chú ý trong giờ học, nhiều trẻ còn nói chuyện và làm việc riêng không quan sát cô đang làm gì và nói những gì, do đó khi cô hỏi trẻ về đặc điểm các con vật hay các đồ vật trẻ không trả lời được. Dẫn đến trẻ không biết so sánh, không biết phân loạivà không yêu thích hoạt động.Trẻ không muốn được thao tác, thực hành với các đồ vật, vì vậy giờ học chưa đạt được kết quả như mong muốn. Kết quả được thể hiện rõ qua bảng khảo sát đầu năm trên trẻ như sau:
Nội dung khảo sát
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
Số lượng
%
Số lượng
%
Tổng số trẻ được khảo sát
Kỹ năng quan sát
25
58,1
18
41,8
( 43 trẻ)
Kỹ năng so sánh
10
23,2
33
76,7
Kỹ năng phân loại
20
46,5
23
53,4
Kỹ năng thao tác, thử nghiệm 
5
11,6
38
88,3
Kỹ năng suy luận
5
11,6
38
88,3
Kỹ năng ghi nhớ có chủ định
22
51,1
21
48,8
Tổng hợp
6
87
202,1
171
397,3
%
33,7
33,7
66,3
66,3
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp 5-6 tuổi, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài để tìm ra một số giải pháp, biện pháp tốt nhất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi và đạt được kết quả mong đợi ở lứa tuổi này. Giúp trẻ hứng thú, tích cực, sáng tạo và đạt hiệu quả cao góp phần vào mục tiêu giáo dục và đáp ứng các yêu cầu giáo dục của chương trình chăm sóc giáo dục trong thời kì hiện nay, thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi dưỡng chuyên môn,tôi đã tìm ra một số biện pháp sau:
3. Các biện pháp:
Biện pháp 1: Nâng cao trình độ, kỹ năng sử dụng tin học bằng cách tham khảo các nguồn tài liệu về tin học.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ung_dung_cntt_trong_viec_thiet_ke_bai.doc