SKKN Một số biện pháp thúc đẩy nhóm hoạt động hiệu quả trong dạy học theo mô hình vnen
Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) là kết quả lao động sáng tạo, bền bỉ của các nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam. Xuất phát từ tổng kết thực tiễn kết hợp với những vấn đề lí luận tiên tiến trên thế giới về khoa học giáo dục, nhằm chuyển đổi mô hình từ giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục trường học mới, mà nội dung chính là tập trung nâng cao phẩm chất năng lực người học, coi trọng giáo dục toàn diện để dạy làm người, thực hiện di chúc của Bác Hồ là đào tạo lớp người ‘‘Vừa hồng vừa chuyên’’.
Năm học 2012 – 2013, trường Tiểu học Tượng Sơn là một trong bốn trường của huyện Nông Cống trên 91 trường đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá tham gia dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam. Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo nhóm.
Tổ chức dạy học theo nhóm là một hình thức dạy học mới. Đó là một trong những hình thức thực hiện tốt việc dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này, học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên.
Phương pháp dạy học theo nhóm được sử dụng nhằm khai thác vốn kiến thức mà các em đã tích luỹ, những hiểu biết thực tế trong đời sống hoặc vận dụng kiến thức vào cuộc sống lao động và sản xuất.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÔNG CỐNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NHÓM HOẠT ĐỘNG HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC THEO MÔ HÌNH VNEN” Người thực hiện: Phan Thị Loan Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tượng Sơn SKKN thuộc lĩnh mực: Phương pháp dạy học. NÔNG CỐNG, NĂM 2016 MỤC LỤC TT Nội dung Trang I PHẦN MỞ ĐẦU 1 1 Lý do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 II PHẦN NỘI DUNG 3 1 Cơ sở lí luận 3 2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 4 3 Một số biện pháp thúc đẩy nhóm hoạt động có hiệu quả theo mô hình VNEN 5 4 Kết quả đạt được 16 III PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 18 1 Kết luận 18 2 Kiến nghị 19 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) là kết quả lao động sáng tạo, bền bỉ của các nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam. Xuất phát từ tổng kết thực tiễn kết hợp với những vấn đề lí luận tiên tiến trên thế giới về khoa học giáo dục, nhằm chuyển đổi mô hình từ giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục trường học mới, mà nội dung chính là tập trung nâng cao phẩm chất năng lực người học, coi trọng giáo dục toàn diện để dạy làm người, thực hiện di chúc của Bác Hồ là đào tạo lớp người ‘‘Vừa hồng vừa chuyên’’. Năm học 2012 – 2013, trường Tiểu học Tượng Sơn là một trong bốn trường của huyện Nông Cống trên 91 trường đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá tham gia dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam. Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo nhóm. Tổ chức dạy học theo nhóm là một hình thức dạy học mới. Đó là một trong những hình thức thực hiện tốt việc dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này, học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Phương pháp dạy học theo nhóm được sử dụng nhằm khai thác vốn kiến thức mà các em đã tích luỹ, những hiểu biết thực tế trong đời sống hoặc vận dụng kiến thức vào cuộc sống lao động và sản xuất. Hoạt động hợp tác trong nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tập sẽ tăng lên nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành công việc. Làm việc theo nhóm có thể tập trung những mặt mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu. Trong hoạt động hợp tác, mục tiêu hoạt động là của toàn nhóm, nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể, phối hợp với nhau để đạt mục tiêu chung: Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường có tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội trong đó mỗi người sống và làm việc theo sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng. Tất cả các thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia chia sẻ ý kiến và kinh nghiệm của mình với cả nhóm. Trong quá trình quan sát các nhóm làm việc giáo viên có thể thay đổi cấu trúc của nhóm để tạo cơ hội cho các thành viên có dịp trao đổi giữa nhiều người với nhau. Xây dựng ý thức làm việc theo nhóm. Là một giáo viên trực tiếp dạy thử nghiệm mô hình NVEN trong 3 năm học vừa qua, được tham gia các lớp tập huấn, tôi nhận thức rõ tính ưu việt của dạy học theo nhóm như trên nên tôi trăn trở tìm tòi “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy nhóm hoạt động hiệu quả trong dạy học theo mô hình VNEN ở trường Tiểu học Tượng Sơn” để làm đề tài cho mình nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Nhằm đề xuất một số giải pháp giúp nâng cao hiệu quả học tập theo nhóm trong học sinh ở trường Tiểu học Tượng Sơn, qua đó phát triển kĩ năng dạy học theo nhóm và nhân rộng ở các lớp. Qua dạy học nhóm giúp học sinh biết chia sẻ, phát triển tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin... góp phần nâng cao chất lượng học tập, đáp ứng yêu cầu học tập hiện nay trong thời kì hội nhập. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. a. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 3B trường Tiểu học Tượng Sơn huyện Nông Cống năm học 2014 – 2015. b. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về: “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy nhóm hoạt động hiệu quả” để nâng cao chất lượng dạy học ở lớp 3B trường Tiểu học Tượng Sơn và các lớp học mô hình VNEN năm học 2014 - 2015 4. Phương pháp nghiên cứu. Để nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng một số nhóm phương pháp nghiên cứu sau : a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài liệu có liên quan đến nội dung sáng kiến, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu. b. Phương pháp quan sát: Thực hiện quan sát trong quá trình học tập trong lớp, ngoài giờ học tập, đặc biệt theo dõi trong những giờ thảo luận nhóm của học sinh nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của dạy học theo nhóm. c. Phương pháo điều tra phỏng vấn: Tiến hành thiết lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm và tự luận cho một số nhóm học sinh và điều tra qua phiếu liên quan đến việc phân tích đánh giá việc học của học sinh, hay thông qua phỏng vấn trực tiếp qua đó nắm bắt được thực trạng. d. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Qua các hoạt động, giáo viên ghi chép qua đó đúc rút kinh nghiệm được, chưa được tổng hợp đi đến kết luận. e. Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Mô hình trường học mới Việt Nam là mô hình dạy học tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm giáo dục của nước ta.Từ năm học 2002-2003, theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bắt đầu thay sách giáo khoa lớp 1 và thay sách các lớp ở các năm học tiếp theo. Cũng trong giai đoạn này, vấn đề dạy học hợp tác theo nhóm được đề cập nhiều trong dạy học ở các tiết học, lớp học và hoạt động giáo dục khác. Tuy nhiên, việc tổ chức cho học sinh hợp tác nhóm khi hình thành một đơn vị kiến thức, ít khi xuyên suốt cả tiết học, buổi học; thiếu chủ động chưa thể hiện rõ vai trò gắn kết, trách nhiệm giữa các thành viên; có khi ta thấy đó chỉ là hình thức, chưa thật sự tạo ra không khí, phát huy vai trò của các thành viên trong nhóm. Việc tổ chức hoạt động nhóm của giáo viên chỉ là để hình thành một đơn vị kiến thức cho nên đôi lúc chưa đảm bảo được các yếu tố để cấu thành của một nhóm hợp tác; vì không liên tục cho nên không tạo được thói quen và rèn luyện được các kĩ năng. Sự thay đổi của tổ chức lớp học theo mô hình VNEN với Hội đồng tự quản học sinh đã thay đổi căn bản vai trò, nhiệm vụ của học sinh trong tổ chức của mình; thể hiện được tính tự chủ, tự giác, phát huy sáng tạo và tôn trọng ý kiến của các em nhiều hơn. Nhóm là một bộ phận gắn kết cơ bản xuyên suốt cả quá trình, do vậy có điều kiện để rèn luyện các kĩ năng và hợp tác nhóm. Đặc trưng phương pháp dạy học hợp tác nhóm là học sinh trước hết phải làm việc cá nhân để có chính kiến riêng của mình, sau đó trao đổi cặp đôi, thống nhất ở nhóm nhằm đưa ra ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của các bạn để hoàn thiện thêm ý kiến của mình do vậy học sinh được tạo nhiều cơ hội hơn để diễn đạt, khám phá ý tưởng, mở rộng suy nghĩ và rèn luyện kĩ năng nói; tự tìm tòi để phải đưa ra được ý kiến của mình, tạo cơ hội để học hỏi từ các bạn; cũng từ đây các em có kĩ năng giao tiếp tốt hơn. Việc học tập tích cực trong nhóm cũng hình thành cho các em kĩ năng lắng nghe, kĩ năng ra quyết định trước khi đưa ra vấn đề, tạo sự tương tác thân thiện giữa các bạn cùng nhóm, luôn có thái độ hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau. Tăng cường tính tích cực, chủ động, linh hoạt và học sinh thật sự tham gia vào quá trình chiếm lĩnh kiến thức. Hoạt động dạy học của giáo viên theo mô hình VNEN được thay đổi cơ bản so với dạy học truyền thống thể hiện ở hình thức tổ chức dạy học. Lớp học thành các nhóm tự học, do vậy vai trò của giáo viên đã thay đổi từ truyền thụ, giảng giải thậm chí là làm thay chuyển sang hướng dẫn, trợ giúp phù hợp, đúng thời điểm. Từ chỗ học sinh tiếp thu thụ động đến chỗ để cho học sinh tự tìm kiếm qua tài liệu, thảo luận nhóm cũng là một quá trình điều chỉnh của bản thân người học. Vai trò tổ chức, hướng dẫn lớp học phát huy được tốt thông qua sự quan sát và cách tiếp cận hỗ trợ học sinh của giáo viên. Quá trình đánh giá học sinh thay đổi từ nhiều khía cạnh và yếu tố khác nhau thể hiện được vai trò của cá nhân và nhóm học sinh trong quá trình tự đánh giá kết quả của mình. 2. Thực trạng dạy học theo nhóm ở trường Tiểu học Tượng Sơn: a) Thuận lợi – khó khăn : * Thuận lợi : - Trường Tiểu học Tượng Sơn là trường nằm cách xa trung tâm huyện Nông Cống. Nhìn chung, đời sống của người dân nơi đây còn nghèo, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhưng mặt bằng dân chí đã được nâng lên nên phụ huynh cũng rất quan tâm đến tình hình học tập của con em mình. - Cơ sở vật chất trường học đảm bảo mỗi lớp có một phòng học riêng. Điều này rất thuận lợi cho nhà trường triển khai công tác dạy học thử nghiệm theo mô hình VNEN cho học sinh. - Đội ngũ giáo viên nhà trường đa số còn trẻ, có trình độ đào tạo đạt trên chuẩn 100%, có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với công việc. Giáo viên nhận thức được làm việc theo nhóm đem lại hiệu quả cao. - Học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu và đồ dùng học tập, thích học mô hình Trường học mới này. - Thiết kế tài liệu Hướng dẫn học rất rõ ràng những việc cần làm cho GV, học sinh và phụ huynh rất tiện cho GV, HS, PH trong quá trình dạy và học. * Khó khăn : - Do mặt bằng dân trí địa phương chưa cao, địa phương thuộc vùng khó khăn của huyện, mối quan hệ của các em chưa phong phú. Chính vì vậy, một số kĩ năng cần thiết ở học sinh nhà trường khi học tập theo mô hình VNEN như: kĩ năng tổ chức nhóm, kĩ năng quan sát, theo dõi tiến độ của các thành viên trong nhóm, kĩ năng giải quyết vấn đề trong nhóm, còn rất nhiều hạn chế. - Đòi hỏi nhiều thời gian: Một lớp học đông với thời gian giảng dạy từ 35 đến 40 phút học một tiết là một trở ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công. Nếu như GV không kiểm soát cẩn thận về sự tương tác giữa HS trong nhóm thì một vài HS có thể lãng phí thời gian vào việc thảo luận những vấn đề không có liên quan hoặc có thể xảy ra trường hợp là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua quá mức. - Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng hoặc một vài em có thể cảm thấy không thoải mái với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm và sự bình xét của các bạn. - Dạy học theo nhóm có thể gây ồn ào trong lớp, khó kiểm soát. - Trong nhóm có thể có một số học sinh tích cực, một số khác ỷ lại vào các bạn trong nhóm. - Việc phân nhóm khó khăn, mất nhiều thời gian, khó có thể đánh giá từng học sinh trên kết quả thảo luận của nhóm. b) Kết quả khảo sát thực trạng: Qua thực tế chất lượng đạt được của học sinh lớp 3B cuối năm học 2011 - 2012 (là năm học nhà trường chưa thực hiện dạy học theo mô hình VNEN) như sau: Lớp Xếp loại giáo dục Giỏi Khá Trung bình Yếu SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 3B 4 11,7% 6 17,6% 22 65,1% 2 5,6% Bảng chất lượng trên cho thấy, tỉ lệ học sinh yếu còn cao, tỉ lệ học sinh khá giỏi còn thấp. Vì vậy, bản thân mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm trong quá trình tổ chức dạy học nhóm theo mô hình VNEN để thấy chất lượng giáo dục khi học theo mô hình được nâng lên một cách rõ rệt. 3. Một số biện pháp thúc đẩy nhóm hoạt động hiệu quả theo mô hình VNEN Trong quá trình tổ chức dạy học, bản thân nhận thức được nhóm học tập là một thành tố đặc trưng, quan trọng của mô hình dạy học VNEN. Có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở trong nhóm học tập. Học sinh chủ yếu làm việc với nhóm; có thể làm việc với giáo viên, làm việc chung cả lớp chỉ khi cần thiết. Chính vì vậy, trong quá trình tổ chức dạy học nhóm, tôi đã thực hiện một số biện pháp căn bản để thúc đẩy nhóm hoạt động hiệu quả như sau: 3.1. Tiến hành xây dựng nhóm học tập Nhiệm vụ đầu tiên sau khi nhận lớp học theo mô hình VNEN là tôi tiến hành xây dựng nhóm học tập. Trong thực tế thì có nhiều cách chia nhóm khác nhau, nhưng tôi xin nêu ra một số cách cơ bản sau: * Cho học sinh tự chọn nhóm: - Cách chia nhóm này là GV cho phép học sinh tự chọn nhóm học tập của mình khi giáo viên yêu cầu. Đây là hoạt động mà học sinh rất hứng thú. Các nhóm nhỏ ( 4 đến 6 học sinh) được hình thành theo sở thích, thói quen của nhau. Học sinh tự hình thành nhóm trên cơ sở nguyện vọng. - Tôi vận dụng chia nhóm theo hình thức này trong các tiết Hoạt động giáo dục Thủ công, Hoạt động giáo dục thể chất, Hoạt động giáo dục Âm nhạc, Hoạt động giáo dục theo chủ đề đây là các tiết học mà không bị áp lực nhiều về lực học của học sinh. Lưu ý: Tôi cũng không lạm dụng hình thức này vì cho các em lựa chọn nhóm thì một số học sinh cứ mãi cùng thực hiện hoạt động với nhau có thể dễ dẫn đến tình trạng kết bè phái trong lớp cho nên tuỳ theo nội dung bài học, tiết học mà tôi cho các em lựa chọn hình thức chia nhóm này. * Chia nhóm một cách ngẫu nhiên: - Đây là dạng tổ chức nhóm ngẫu nhiên, một hình thức chia nhóm công bằng cho tất cả học sinh. Việc chia nhóm theo hình thức này sẽ tạo sự thích thú, cảm giác thay đổi, mang lại những điều mới mẻ cho học sinh, giúp các em có tâm thế tốt bước vào tiết học. Cách chia nhóm này có thể thông qua trò chơi để học sinh được kết nhóm. Hình thức này rất phù hợp trong các tiết Hoạt động giáo dục. - Có thể chia nhóm ngẫu nhiên bằng nhiều cách: + Dùng các thẻ màu khác nhau: HĐTQHS sẽ phát ngẫu nhiên thẻ màu cho các bạn. Những học sinh có thẻ cùng màu sẽ thành một nhóm. + Qua cách điểm số: Chia 6 nhóm thì điểm số từ 1 → 6, những em nào có cùng số thì hợp thành nhóm. + Theo sở thích: những em có cùng sở thích (màu sắc, loài hoa, món ăn, nghệ sĩ,....) thì hợp thành nhóm. + Ngẫu nhiên lựa chọn: Chia 6 nhóm thì phát 6 loại tranh ảnh để học sinh ngẫu nhiên lấy 1 loại rồi tập trung thành nhóm. * Giáo viên là người chọn nhóm: Cách lựa chọn nhóm này có thể phân chia thành các loại nhóm sau: + Nhóm đối tượng( dựa trên năng lực của học sinh): Khi tôi muốn làm việc với các nhóm học sinh có trình độ tương đương trong mỗi nhóm thì tôi sẽ gộp các học sinh khá giỏi lại với nhau; học sinh yếu sẽ được chia thành các nhóm đồng nhất trình độ với nhau. Bằng cách chia này, một mặt tôi có thể giao thêm việc cho các nhóm học sinh khá giỏi hoặc có năng khiếu về lĩnh vực nào đó nhằm tăng cường thử thách, khơi gợi hứng thú và ham mê khám phá sáng tạo của các em; mặt khác, tôi sẽ tập trung hướng dẫn, củng cố những vấn đề cơ bản cho các nhóm học yếu và đảm bảo có thời gian đầu tư vào việc thiết kế nhiệm vụ phù hợp với năng lực của nhóm này. Cách chia nhóm dựa theo năng lực tương đương sẽ tránh được tình trạng bị thống trị bởi những học sinh khá, giỏi hoặc quá mạnh mẽ. Chia nhóm theo hình thức này tôi áp dụng ở các tiết luyện tập thực hành, ôn lại những gì đã học. + Nhóm nhiều trình độ: Đây là nhóm phục vụ cho các môn học tập trung vào phát triển các kĩ năng. Tôi lựa chọn học sinh thành các nhóm sao cho trong mỗi nhóm đảm bảo có cả học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu; có học sinh có khả năng giao tiếp cũng như có cả học sinh còn hạn chế về khả năng này mục đích nhằm hỗ trợ lẫn nhau. Chia nhóm theo hình thức này tôi áp dụng ở các bài dạng cung cấp kiến thức mới. Việc chia nhóm theo theo hình thức này có thể tạo điều kiện giúp các nhóm có tiến độ học tập tương đối đồng đều, tạo được mối quan hệ giúp đỡ nhau của chính các thành viên ở trong nhóm. Tóm lại, việc chia nhóm như thế nào là do giáo viên căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh lớp mình trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí về sức học, về khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và điều hành của nhóm trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm. Ngoài ra, có thể căn cứ vào môn học, dạng bài học để lựa chọn cách chia nhóm. Tuy nhiên cần lưu ý, việc chia nhóm nên thay đổi định kì hoặc do giáo viên lựa chọn thời điểm. Cần tuyệt đối tránh trường hợp một học sinh ngồi cố định một chỗ, một nhóm trong thời gian kéo dài do tư thế ngồi của các em khi nhìn lên bảng để hoạt động chung cả lớp có thể mang lại những khó khăn nhất định và sẽ hạn chế kĩ năng hợp tác với nhiều bạn khác nhau nơi học sinh. 3.2. Tiến hành bồi dưỡng kĩ năng làm việc cho các thành viên trong nhóm Trong hoạt động nhóm giáo viên phải nắm vững một số cách thức cơ bản trong tổ chức nhóm để từ đó tìm ra cách huấn luyện, trang bị kĩ năng làm việc nhóm cho các em. Điều quan trọng sau khi hình thành các nhóm học tập là phải bồi dưỡng kĩ năng cho các thành viên trong nhóm, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều hiểu và nắm giữ một vai trò nhất định, như vậy sẽ khuyến khích được các em tham gia nhiều hơn, tránh tình trạng học sinh không có việc, không biết mình phải làm gì, hay nói cách khác là bị đứng ngoài lề của công việc nhóm. Cụ thể tôi đã hướng dẫn các nhóm bầu chọn nhóm trưởng, thư kí, người thuyết trình, người thu thập tài liệu, người khuyến khích, thành viên kiểm soát thời gian... Sau đó hướng dẫn nhiệm vụ cho từng vai trò như sau : * Lựa chọn nhóm trưởng, bồi dưỡng năng lực điều hành cho nhóm trưởng : Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát hoạt động học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người tích cực hỗ trợ giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo viên kết quả học tập hay những gì còn vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập mà nhóm cần sự hỗ trợ. Một nhóm trưởng có năng lực là phải biết tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác tự học, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn còn nhút nhát, thiếu tự tin cần được quan tâm để bạn được nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. Tuyệt đối không để tình trạng hoạt động nhóm chỉ là hình thức, chỉ có nhóm trưởng và thư kí làm việc thay, làm hộ cho các thành viên trong nhóm (một bạn nêu kết quả và một bạn ghi, thậm chí tự nhóm trưởng ghi kết quả thảo luận). Có thể nói, lớp học nào, giáo viên nào có được đội ngũ nhóm trưởng có năng lực điều hành tốt thì việc tiến hành dạy học nhóm theo mô hình VNEN gặp rất nhiều thuận lợi, đảm bảo sự thành công của mô hình trường học mới. Vậy, làm thế nào để có được đội ngũ nhóm trưởng có năng lực điều hành tốt? Đây là câu hỏi mà bất cứ giáo viên nào tham gia dạy học theo mô hình VNEN đều trăn trở và dành nhiều thời gian cũng như công sức để lựa chọn và bồi dưỡng. a) Lựa chọn - Khi nhận lớp, là người giáo viên chủ nhiệm, tôi đã tiến hành một số bước căn bản sau để có thể lựa chọn được đội ngũ nhóm trưởng: + Tiến hành điều tra, tìm hiểu khả năng, sở thích của các em học sinh trong lớp mình, trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm trước, kịp thời nắm bắt xem em học sinh nào có năng lực làm nhóm trưởng, thích làm nhóm trưởng. + Ban đầu tôi chọn những học sinh có học lực khá, giỏi, kết hợp với sở thích của các em để tiến hành bồi dưỡng năng lực điều hành nhóm cho các em. Nếu được em nào có học lực giỏi lại thích làm nhóm trưởng là sự lựa chọn tốt nhất. + Có thể kết hợp với việc cho các bạn học sinh trong lớp bầu chọn. Nhưng cần lưu y
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_thuc_day_nhom_hoat_dong_hieu_qua_trong.doc