SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa

Môn học Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ quan trọng, trau dồi ngôn ngữ cho học sinh, trang bị cho học sinh những tri thức Việt ngữ học và quy tắc sử dụng chúng trong hoạt động giao tiếp.

Trong các phân môn của bộ môn Tiếng Việt, chính tả là một trong những phân môn có vai trò quan trọng, bởi đây là phân môn hình thành, rèn luyện và phát triển kỹ năng viết. Rèn chữ viết chính tả cung cấp cho học sinh biết quy tắc chính tả và thói quen viết chữ ghi âm Tiếng Việt đúng và chuẩn. Nắm vững chính tả, học sinh mới có thể nói được, viết được, nói hay, viết hay góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt- thứ của cải vô cùng quý báu của dân tộc ta.

Sự thống nhất chính tả thể hiện tính thống nhất của một ngôn ngữ. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị trở ngại giữa các địa phương, cũng như giữa các thế hệ với nhau. Giải quyết lỗi chính tả trong nhà trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục đề ra.

Trên thực tế, hiện tượng viết sai chính tả là khá phổ biến ở học sinh lớp 4. Mặc dù những qui tắc, qui ước về Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại do có rất nhiều tiếng, từ không thể phân biệt chính tả theo quy tắc. Ngoài việc do học sinh chưa phân biệt được sự khác nhau trên cơ sở phát âm thì trong Tiếng Việt lại có rất nhiều tiếng mà khi phát âm có sự tương đồng rất khó phân biệt như hiện tượng các tiếng có phụ âm đầu là d/gi. Chính vì thế mà học sinh viết sai chính tả tương đối phổ biến và đã ảnh hưởng không tốt đến khả năng cảm thụ Tiếng Việt của học sinh. Chưa nói đến hiện tượng không đồng nhất trong phát âm giữa các vùng, miền là khá phổ biến.

 Chính vì vậy, học sinh hiện nay mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói chung cũng như các môn học khác. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy thực tế, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa”, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan.

 

doc 18 trang thuychi01 7031
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1
 PHẦN MỞ ĐẦU
1
1.1
Lý do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu.
3
2
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
4
2.2
Thực trạng của vấn đề
4
2.3
Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
2.3.1
Giáo viên tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh theo tiêu chí chữ viết.
6
2.3.2
Giáo viên nắm vững mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
6
2.3.3
Giúp học sinh nắm vững kiến thức Tiếng Việt ( hiểu nghĩa từ, cấu tạo tiếng, ghi nhớ luật chính tả để viết đúng).
7
2.3.4
Luyện cho học sinh phát âm chuẩn ( nói tiếng phổ thông) trong các môn học và ở mọi tình huống giao tiếp
10
2.3.5
Rèn luyện cho học sinh tính khoa học, tính cẩn thận, tính thẩm mĩ.
11
2.3.6
Phối hợp linh hoạt một số biện pháp khác.
12
2.4
Hiệu quả của sáng kiến
13
3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
15
3.1
Kết luận
15
3.2
Kiến nghị
15
1. MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài
Môn học Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ quan trọng, trau dồi ngôn ngữ cho học sinh, trang bị cho học sinh những tri thức Việt ngữ học và quy tắc sử dụng chúng trong hoạt động giao tiếp.
Trong các phân môn của bộ môn Tiếng Việt, chính tả là một trong những phân môn có vai trò quan trọng, bởi đây là phân môn hình thành, rèn luyện và phát triển kỹ năng viết. Rèn chữ viết chính tả cung cấp cho học sinh biết quy tắc chính tả và thói quen viết chữ ghi âm Tiếng Việt đúng và chuẩn. Nắm vững chính tả, học sinh mới có thể nói được, viết được, nói hay, viết hay góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt- thứ của cải vô cùng quý báu của dân tộc ta.
Sự thống nhất chính tả thể hiện tính thống nhất của một ngôn ngữ. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị trở ngại giữa các địa phương, cũng như giữa các thế hệ với nhau. Giải quyết lỗi chính tả trong nhà trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục đề ra.
Trên thực tế, hiện tượng viết sai chính tả là khá phổ biến ở học sinh lớp 4. Mặc dù những qui tắc, qui ước về Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại do có rất nhiều tiếng, từ không thể phân biệt chính tả theo quy tắc. Ngoài việc do học sinh chưa phân biệt được sự khác nhau trên cơ sở phát âm thì trong Tiếng Việt lại có rất nhiều tiếng mà khi phát âm có sự tương đồng rất khó phân biệt như hiện tượng các tiếng có phụ âm đầu là d/gi. Chính vì thế mà học sinh viết sai chính tả tương đối phổ biến và đã ảnh hưởng không tốt đến khả năng cảm thụ Tiếng Việt của học sinh. Chưa nói đến hiện tượng không đồng nhất trong phát âm giữa các vùng, miền là khá phổ biến. 
	Chính vì vậy, học sinh hiện nay mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói chung cũng như các môn học khác. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy thực tế, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa”, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. 
	1.2. Mục đích nghiên cứu:
 Nghiên cứu phương pháp đặc trưng của phân môn chính tả, hiểu được nguyên nhân học sinh hay viết sai lỗi chính tả thường gặp, giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tảTừ đó giúp học sinh viết đúng, viết đẹp theo mẫu quy định và nâng cao chất lượng viết chính tả nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung.
 	1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 	- Nghiên cứu thực trạng chữ viết và những lỗi sai chính tả của học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa.
 	- Nghiên cứu về nội dung chương trình và chuẩn kiến thức kĩ năng của phân môn chính tả lớp 4.
 	- Tổng kết các giải pháp dạy chính tả lớp 4 trường Tiểu học Định Hưng
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
 1. Phương pháp khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh.
2. Phương pháp thống kê, phân tích.
3. Phương pháp thực nghiệm.
4. Phương pháp đối chiếu và so sánh kết quả sau khi vận dụng các biện pháp trên.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tiếng Việt là ngôn ngữ chung thống nhất trên toàn đất nước Việt Nam, nhưng mỗi vùng đều có sự khác biệt nhiều cách phát âm của từng địa phương khác nhau, dẫn đến tình trạng viết sai chính tả do phát âm. Con người không chỉ giao tiếp bằng ngôn ngữ nói mà còn giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết là làm sao phải đảm bảo được người đọc hiểu đúng hoàn toàn ý nghĩa, nội dung trong văn bản của người viết. Viết đúng chính tả là giúp cho học sinh có điều kiện sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các môn học khác ở nhà trường. Để đạt được yêu cầu này trên lĩnh vực chữ viết phải được thể hiện một cách thống nhất trên từng con chữ, từng âm tiết Tiếng Việt.
	Về cơ bản chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, mỗi âm vị được ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết chính tả Tiếng Việt là thống nhất với nhau. Bởi theo nghĩa gốc thì “chính tả” tức là “ phép viết đúng” hay “ lối viết hợp với chuẩn”.
	Qua các bài viết chính tả, rèn luyện cho học sinh “ có tính kỉ luật, tính cẩn thận và óc thẩm mĩ”. Đồng thời bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý Tiếng Việt, chữ viết, cách biểu thị tình cảm được thể hiện trong việc viết đúng chính tả.
	Xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của việc viết đúng chính tả như thế nên phân môn chính tả đã được đưa vào chương trình giảng dạy của trường phổ thông. Cụ thể , phân môn chính tả đã được giảng dạy ở tất cả các lớp trong bậc học tiểu học (trừ học kì I của chương trình lớp 1 là chưa dạy) với nhiều hình thức chính tả khác nhau: Từ chính tả nhìn để chép (ở cuối lớp 1 và đầu lớp 2) rồi đến chính tả nghe - viết, chính tả nhớ - viết. Với những hình thức chính tả này giúp học sinh có thể hiểu về quy tắc chính tả để viết đúng chính tả. Tuy việc viết đúng chính tả là quan trọng và cần thiết như vậy nhưng thực tế việc dạy và học chính tả ở tất cả các lớp trong bậc học Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 trường Tiểu học Định Hưng nói riêng vẫn còn mắc nhiều lỗi khi viết chính tả. Đây là nhiệm vụ của người học sinh cần phải rèn luyện chữ viết sao cho đúng “chính tả” và cũng là trách nhiệm đặc biệt quan trọng của tập thể giáo viên trường Tiểu học Định Hưng nói chung cũng như cá nhân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 4 nói riêng.
 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
 2.2.1. Thực trạng
	Hiện nay chất lượng chữ viết của học sinh còn sai nhiều lỗi chính tả. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, tôi xin nêu ra một số nguyên nhân như sau:
 	- Giáo viên chưa tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh theo tiêu chí chữ viết để có biện pháp bồi dưỡng, uốn nắn theo đúng đối tượng mà đang còn thiên về dạy đồng loạt.
 	- Giáo viên chưa nắm vững mục tiêu, nội dung phương pháp dạy học môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn chính tả. 
 	- Do học sinh bị ảnh hưởng bởi phương ngữ (chưa nói chuẩn theo tiếng phổ thông) Ví dụ: chân các em viết thành chưn. Hơn nữa, khả năng ghi nhớ luật chính tả của học sinh còn chưa sâu nên rất lúng túng trong việc viết chính tả. Ví dụ: ngành nghề viết thành ngành ngề. Mặt khác, do các em nắm kiến thức về chính âm chưa tốt. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như: Điều kiện gia đình các em đa số làm nông nghiệp, bố mẹ suốt ngày bận rộn với công việc, ít có thời gian dạy dỗ con cái, góc học tập gần như không có. Phần nữa là ý thức học tập của các em còn hạn chế, không đồng bộ 
 	- Giáo viên chưa luyện cho học sinh phát âm chuẩn, viết đúng chính tả trong tất cả các môn học ví dụ vẫn còn nhiều giáo viên nói tiếng địa phương như: nói ngã ngửa thành ngả ngửa hoặc rực rỡ thành dực dở.
 	- Học sinh chưa có tính cẩn thận, còn hay viết cẩu thả, viết nhanh, viết ngoáy, trình bày chưa khoa học bài chính tả. Ví dụ: Các em chưa viết đúng độ cao, độ rộng, khoảng cách các con chữ; viết dấu thanh quá to và vị trí dấu thanh chưa đúng hay chưa chú ý trình bày bài đặc biệt là các dạng bài thơ.
 	- Giáo viên chưa kết hợp linh hoạt một số biện pháp như: Tăng cường khâu nhận xét, chữa bài, đánh giá đúng chất lượng học sinh, tạo hứng thú thi đua trong học tập; Kết hợp với phụ huynh, đồng nghiệp để phối hợp rèn luyện cho học sinh viết đúng chính tả. 
 2.2.2. Kết quả của thực trạng:
Từ những thực trạng trên, ngay sau khi nhận lớp, tôi đã tổ chức khảo sát, đánh giá chất lượng chữ viết của học sinh lớp 4A vào tuần đầu năm và tôi đã thu được kết quả như sau:
	KẾT QUẢ KHẢO SÁT BÀI VIẾT CỦA HỌC SINH LỚP 4A.
(Sĩ số lớp 32 em)
Bảng 1
- Các em thường sai một số lỗi chính tả phổ biến như sau:
Lỗi về phụ âm
Lỗi về vần
Lỗi về dấu thanh
Lỗi về cỡ chữ, thế chữ
Lỗi về cách trình bày
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10
31,2
6
18,7
7
21,8
5
15,6
6
18,7
	- Chính vì vậy kết quả xếp loại rất thấp: 
STT
Xếp loại
SL
Tỉ lệ %
1
Loại A
20
62,5
2
Loại B
9
28,1
3
Loại C
3
9,4
 Bản thân tôi rất băn khoăn trước kết quả trên. Quan tâm đến chữ viết của học sinh giúp các em viết đúng, viết đẹp là một việc làm hết sức cần thiết của mỗi giáo viên đứng lớp nói riêng. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn đưa ra:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Định Hưng – Yên Định – Thanh Hóa ”
 	2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: 
 	Đối chiếu với chuẩn kiến thức và kĩ năng của phân môn chính tả lớp 4, với nhiện vụ năm học của ngành, của nhà trường và tình hình thực tế chất lượng chữ viết của học sinh lớp 4A như đã nêu ở trên, để giúp học sinh ở lớp 4 trường Tiểu học Định Hưng - Yên Định - Thanh Hóa viết đúng, đẹp thì cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
2.3.1: Giáo viên tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh theo tiêu chí chữ viết.
Tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh là một việc làm tiên quyết, quan trọng không thể thiếu đối với bất cứ người giáo viên chủ nhiệm nào khi bắt đầu nhận lớp. Thông qua việc tìm hiểu, tôi nắm bắt được hoàn cảnh, tâm sinh lí của từng em, từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp với từng đối tượng.
Từ việc phân loại học sinh, tôi sắp xếp em viết chữ chưa đẹp ngồi cạnh em viết chữ đẹp. Tôi đưa ra quy định cần có như vở, bútNgoài ra, tôi quan tâm đến từng đối tượng nhất là những em mắc nhiều lỗi chính tả và phân ra từng nhóm đối tượng cụ thể như; nhóm hay mắc lỗi về phụ âm; nhóm hay mắc lỗi về vần, nhóm hay mắc lỗi về dấu thanh, nhóm hay mắc lỗi về cỡ chữ, thế chữ, nhóm hay mắc lỗi về cách trình bày. Khi tôi đã phân chia được các nhóm đối tượng cụ thể như vậy tùy bài cụ thể mà tôi chú trọng cho từng nhóm đối tượng qua từng tiết cụ thể.
 	Với cách làm như vậy tôi đã tạo cho các em cách thi đua để viết đúng và trình bày bài đẹp như bạn. Mặt khác với cách phân loại như vậy tôi có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em một cách cụ thể đồng thời giúp các em hệ thống được từng lỗi sai và cách sửa của từng lỗi đó một cách vững chắc.
 	2.3.2: Giáo viên nắm vững mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
Không những khi dạy chính tả mới đòi hỏi giáo viên nắm vững nội dung chương trình mà bất cứ dạy môn gì, rèn kĩ năng nào, người giáo viên cũng cần tìm hiểu thật kĩ thì mới nắm chắc nội dung cần dạy và sẽ dạy như thế nào để đạt được kết quả tốt nhất.
Có nắm vững được nội dung sẽ dạy, đang dạy mới xâu chuỗi được các vấn đề các nội dung đang dạy vào các mối quan hệ với kiến thức được sắp xếp trước và sau nó. Qua đó có thể đánh giá được mức độ hoàn thành những kiến thức và kĩ năng của môn học cũng như các năng lực, phẩm chất của học sinh.
Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là hình thành cho học sinh 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Chính vì thế tôi luôn tâm niệm rằng: Có thầy giỏi thì mới có trò giỏi. Để giúp học sinh viết đúng chính tả thì trước hết đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững kiến thức về Tiếng Việt, mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt. Vì chỉ khi hiểu rõ được bản chất của chính tả, chính âm, ngữ nghĩa Tiếng Việt thì người giáo viên mới lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp, tìm tòi con đường tối ưu nhất để giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách dễ dàng nhất, hứng thú nhất. Hơn thế nữa, ở mỗi bài học tôi luôn xác định kiến thức trọng tâm học sinh cần đạt là gì, đặt ra các tình huống sư phạm và cách giải quyết, hình thức tổ chức ra sao. Ngoài việc trao đổi học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tôi còn tự học, tự bồi dưỡng qua sách báo, các tài liệu tham khảo, cập nhật những kiến thức và thông tin bổ ích nhằm tăng thêm hiểu biết của bản thân. Vì vậy, để giúp học sinh viết đúng chính tả thì việc nắm vững mục tiêu, nội dung, kiến thức, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với người giáo viên Tiểu học.
 	2.3.3: Giúp học sinh nắm vững kiến thức Tiếng Việt (hiểu nghĩa từ, cấu tạo tiếng, ghi nhớ luật chính tả để viết đúng).
	Trước hết, tôi nghiên cứu tìm tòi để lựa chọn phương pháp tối ưu và hình thức tổ chức dạy học phong phú, phù hợp với nội dung và đối tượng. Để giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt, viết đúng chính tả, tôi luyện cho các em phân biệt chính tả bằng phương pháp phân tích so sánh cấu tạo tiếng; hiểu nghĩa của từ; ghi nhớ một số mẹo luật chính tả; vận dụng bằng các bài tập chính tả. Cụ thể như sau:
 2.3.3.1: Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh cấu tạo tiếng:
	Với loại bài tập này, tôi áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.
	Ví dụ: Khi viết chữ ghi tiếng “thiêu” học sinh dễ lẫn lộn với chữ ghi tiếng “thêu” hoặc“ thiu”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo các tiếng này:
	- thiêu = th + iêu+ thanh ngang
	- thêu = th + êu + thanh ngang
	- thiu = th + iu + thanh ngang
	So sánh để thấy ba tiếng trên khác nhau về vần: 
	+ Tiếng “thiêu” có vần “iêu”- âm chính “iê”.
	+ Tiếng “thêu” có vần “êu”- âm chính “ê”.
	+ Tiếng “thiu” có vần “iu”- âm chính “i”. 
Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.
 2.3.3.2: Phân biệt bằng nghĩa của từ:
	Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câuNhưng trong tiết Chính tả, việc giải nghĩa từ để học sinh phân biệt chính tả cũng là một biện pháp tích cực.
	Ví dụ: Phân biệt truyện và chuyện (Chính tả Tuần 24)): Tôi đã giúp học sinh hiểu nghĩa của hai từ này như sau:
	Truyện: là một tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến sự việc, được sáng tác và rút ra được cốt truyện.
	Chuyện: là một sự việc được nhắc lại, nói lại, nói đến.
 Sau khi học sinh đã hiểu nghĩa của hai từ trên, các em vận dụng làm bài tập: 
	Điền truyện hay chuyện vào chỗ chấm:
	Kể ... phải trung thành với ... , phải kể đúng các tình tiết của câu ... , các nhân vật có trong .... Đừng biến giờ kể ... thành giờ đọc .... 
	Với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
 2.3.3.3: Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:
	Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê. 
	Luật bổng - trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui vẻ, sạch sẽ...) Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc : Ngang- sắc = hỏi / Huyền- nặng = ngã
	Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
	Ví dụ:	
Ngang + hỏi: nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ
Sắc + hỏi: mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ
Hỏi + hỏi: thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ
Huyền + ngã: mỡ màng, lững lờ, vồn vã
Nặng + ngã: đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã
Ngã + ngã: dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo
	Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
	+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé, chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi
	+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô
	+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: 
	Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh
	Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ gợi âm thanh ( từ tượng thanh): oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch
	Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ gợi hình ( từ tượng hình): khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân.
 2.3.3.4: Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
	Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.	 
Ví dụ một số dạng bài tập như sau:
 Dạng 1. Điền vào chỗ trống s hay x. (Tuần 2) 
.anh .anh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc bên bờ .ông
Đứng bên này .ông .ao nhớ tiếc
.ao .ót .a như rụng bàn tay
 Dạng 2.Tìm tiếng có vần iên hay uyên thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây.(Tuần 4)
 Chỉ có ..mới hiểu
  mênh mông nhường nào
 Chỉ có  mới biết
 	 .. đi đâu về đâu.
 Dạng 3. Sửa lại cho đúng chính tả các thành ngữ, tục ngữ sau: (Tuần 8)
	- Quạ tắm thì dáo, xáo tắm thì mưa.
	- Xông xâu chớ lội, đò đầy chớ qua.
 Dạng 4. Điền vào chỗ trống r , d hay gi. (Tuần 15)
 ..ây mơ .ễ má
 ..ấy trắng mực đen
 ..eo ó gặt bão
 ..ối ..ít tít mù
 ...anh lam thắng cảnh
 ..út ..ây động rừng
 ..ương đông kích tây
 Dạng 5. Điền vào chỗ trống các tiếng có phụ âm đầu tr hay ch.(Tuần 16)
 Trận đấu kết	Vô tuyến .hình
 Phá cỗ . thu	Văn học . miệng.
 Dạng 6. Chọn những tiếng thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh đoạn văn sau: (Tuần 21)
Cây mai cao trên hai mét, (dáng, giáng, ráng) thanh, thân thẳng như thân trúc. Tán tròn tự nhiên xòe rộng ở phần gốc, thu (giần, dần, rần) thành một (điểm, điễm) ở đỉnh ngọn. Gốc lớn bằng bắp tay, cành vươn đều, nhánh nào cũng (giắn, rắn, dắn) chắc.
 Dạng 7. Điền dấu hỏi hay dấu ngã trên chữ in nghiêng. (Tuần 24)
- Mơ hộp thịt ra chỉ thấy toàn thịt mơ.
- Nó cứ tranh cai, mà không lo cai tiến công việc.
- Anh không lo nghi ngơi. Anh phải nghi đến sức khỏe chứ!
Một số dạng bài tập chính tả vận dụng mà tôi mạnh dạn đưa ra đã giúp các em củng cố và bổ sung kỹ năng nắm chắc quy tắc chính tả. Các em không còn gặp khó khăn khi viết bài, hạn chế lỗi chính tả trong các môn học khác. 
 Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng” trong mọi tình huống.
 	2.3.4: Luyện cho học sinh phát âm chuẩn (nói tiếng phổ thông) trong các môn học và ở mọi tình huống giao tiếp.
Để viết đúng chính t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_dung_dep_cho_hoc_sinh.doc