Sáng kiến kinh nghiệm Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp bốn

Sáng kiến kinh nghiệm Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp bốn

 - Trường chỉ có một điểm tập trung, sân trường bằng phẳng, rộng rãi thoáng mát cả mặt tiền và hậu, có đầy đủ sân chơi và bãi tập cho học sinh, có đủ các phòng chức năng để phục vụ dạy học. Mỗi phòng là một lớp độc lập và được được dạy 2 buổi /ngày (đối với học sinh lớp 1, 4, 5).

 - Đối với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo kịp thời ở từng thời điểm và có đăng kí với Ban giam hiệu .

- Bản thân giáo viên chúng tôi đã được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo ngành, chuyên môn Phòng Giáo dục đến Ban Giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn các khối lớp 4.

- Chúng tôi được học tập và tiếp thu kĩ nội dung chương trình và phương pháp dạy học mới. Đội ngũ giáo viên trong trường yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, thường xuyên thao giảng, dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm, nhằm cải tiến phương pháp để nâng cao chất lượng dạy học.

- Chương trình sách giáo khoa gồm các bài tập đọc đa dạng về thể loại (văn, thơ, kịch ), phong phú về nội dung, được bố trí phù hợp theo chủ điểm. Phương pháp dạy học mới, chú trọng về rèn đọc hơn ở phương pháp dạy học cũ, có yêu cầu đạt chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài học rõ ràng giúp giáo viên tiến hành các tiết dạy một cách lôgic, nhẹ nhàng và hiệu quả.

 

docx 23 trang Trần Đại 28/04/2023 3261
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp bốn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Long An, ngày 01 tháng 12 năm 2018
BÁO CÁO
Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
 phân môn Luyện từ và câu lớp bốn.
 I- Sơ lược lý lịch tác giả:
 - Họ và tên: Huỳnh Thanh Chớn, 	Nam
 - Ngày tháng năm sinh: 27/09/2018
 - Nơi thường trú: Tổ 09, ấp Tân Hậu B2, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
 - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An
 - Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp. 
 - Trình độ chuyên môn: Cử nhân Giáo dục tiểu học.
 - Lĩnh vực công tác: Giáo dục Tiểu học
 II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị.
 a. Thuận lợi:
 - Trường chỉ có một điểm tập trung, sân trường bằng phẳng, rộng rãi thoáng mát cả mặt tiền và hậu, có đầy đủ sân chơi và bãi tập cho học sinh, có đủ các phòng chức năng để phục vụ dạy học. Mỗi phòng là một lớp độc lập và được được dạy 2 buổi /ngày (đối với học sinh lớp 1, 4, 5). 
 - Đối với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo kịp thời ở từng thời điểm và có đăng kí với Ban giam hiệu .
- Bản thân giáo viên chúng tôi đã được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo ngành, chuyên môn Phòng Giáo dục đến Ban Giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn các khối lớp 4. 
- Chúng tôi được học tập và tiếp thu kĩ nội dung chương trình và phương pháp dạy học mới. Đội ngũ giáo viên trong trường yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, thường xuyên thao giảng, dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm, nhằm cải tiến phương pháp để nâng cao chất lượng dạy học. 
- Chương trình sách giáo khoa gồm các bài tập đọc đa dạng về thể loại (văn, thơ, kịch ), phong phú về nội dung, được bố trí phù hợp theo chủ điểm. Phương pháp dạy học mới, chú trọng về rèn đọc hơn ở phương pháp dạy học cũ, có yêu cầu đạt chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài học rõ ràng giúp giáo viên tiến hành các tiết dạy một cách lôgic, nhẹ nhàng và hiệu quả.
 - Thư viện trường khang trang thoáng mát có đầy đủ sách, báo cho học sinh đọc. Ngoài ra, trong lớp học còn có góc thư viện. Tạo cơ hội cho các em được tăng thời lượng và thể hiện kĩ năng đọc của mình trước lớp.
b. Khó khăn:
- Ai còng cho r»ng khi d¹y ph©n m«n LuyÖn tõ vµ c©u th­êng kh« khan, khã truyÒn ®¹t ®­îc hÕt ý trong bµi häc, do ®Æc thï cña m«n häc, nhÊt lµ trong c¸ch t×m tõ, gi¶i nghÜa tõ hay dïng tõ ®Æt c©ukhiÕn cho häc sinh còng ph¶i tiÕp thu bµi mét c¸ch thô ®éng.
- Gi¸o viªn ®«i lóc cßn gi¶ng d¹y theo ph­¬ng ph¸p cò, viÖc ph©n chia thêi l­îng lªn líp ë m«n d¹y ®«i khi cßn dµn tr¶i, ho¹t ®éng cña c«- trß cã lóc thiÕu nhÞp nhµng, nÆng tÝnh h×nh thøc.
- Bªn c¹nh ®ã mét sè phô huynh ch­a thùc sù quan t©m ®Õn con em m×nh cßn cã quan ®iÓm “tr¨m sù nhê nhµ tr­êng, nhê c« gi¸o” còng lµm ¶nh h­ëng ®Õn chÊt l­îng häc tËp cña ph©n m«n.
- Cã nhiÒu häc sinh ch­a thËt sù chó träng khi häc m«n TiÕng ViÖt nãi chung, m«n LuyÖn tõ vµ c©u nãi riªng. Trong t©m t­ëng cña c¸c em vµ mét sè phô huynh häc sinh ®Òu h­íng cho con em häc m«n To¸n nhiÒu h¬n mµ ch­a thËt sù chó träng m«n TiÕng ViÖt, coi nhÑ m«n TiÕng ViÖt, cho r»ng, c¸c em chØ cÇn ®äc ®­îc, viÕt ®­îc lµ ®­îc. ChÝnh v× vËy nhiÒu häc sinh kh«ng høng thó víi m«n häc, thê ¬ víi m«n häc vµ lÖ thuéc vµo c¸c lo¹i s¸ch tham kh¶o, s¸ch båi d­ìng, s¸ch bµi tËp cã s½n ®¸p ¸n, kh«ng chÞu khã häc, suy nghÜ hay chó t©m vµo m«n häc, nhÊt lµ ®èi víi ph©n m«n LuyÖn tõ vµ c©u. Do ®ã c¸c em ch­a thËt sù høng thø víi m«n häc nµy.
 - Tên sáng kiến/đề tài giải pháp
Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học 
phân môn Luyện từ và câu lớp bốn.
 -Lĩnh vực: Chuyên môn
 III. Mục đích yêu cầu đề tài, sáng kiến:
 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
	a. Đối với chương trình sách giáo khoa.
	Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
	b. Đối với giáo viên.
	Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4A,, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
- Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
	- Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
	- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
	- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
	- Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
	c. Đối với học sinh.
	Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
	Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”.
	Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
	Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
	Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
 Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4B bằng bài tập sau.
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
“Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhạn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”.
Qua khảo sát 27 học sinh năm học 2016-2017 của lớp tôi kết quả đạt được như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
2
7,40
18
66,66
7
25,92
 Điều đáng nói ở đây là có tới 7 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ. Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía, người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra những biện pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên và kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học.
d. Sơ lược một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình.
+ Phân tích cấu tạo của tiếng.
+ Tìm các từ ngữ nói về chủ đề.
+ Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao.
+ Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp.
+ Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được
+ Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó.
+ Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn.
+ Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó.
+ Viết thêm trạng ngữ cho câu...
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
 Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.
 Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.
 Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4. Cùng tồn tại với nó là Từ ngữ và Ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi.
 Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một biện pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
 Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài “Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp bốn”
Nhiệm vụ nghiên cứu
 Tìm hiểu tình hình học tiếng việt phân môn Luyện từ và câu thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4.
 Mục đích nghiên cứu
 Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cáhc hiệu quả nhất.
 3. Nội dung sáng kiến 
 A. Tiến trình thực hiện.
 Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 . Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau.
	1. Đọc thật kỹ đề bài.
	2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm.
 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
	4. Kiểm tra đánh giá.
	Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh.
	Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
	Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp.
	- Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được:
	Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ.
	- Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ, học sinh được:
Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được:
	Có 2 cách để tạo từ phức:
	1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép.
	2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ láy.
	- Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng.
 Cần lưu ý:
	+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
	+ Thêm vào các từ rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ.
	+ Tạo ra phép so sánh. 
 Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
	Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
	1. Thái độ khen, chê.
	2. Sự khẳng định, phủ định
	3. Yêu cầu, mong muốn...
	- Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự.
	Câu hỏi:
 1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi.
	2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
	Câu khiến:
	1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự.
	2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp...
	3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị. 
 d. Biện pháp tổ chức.
 Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn “Luyện từ và câu” được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. 
	a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.
	Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
	- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
	- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
	- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
	- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
	Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm. Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp. 
	Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...
	Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng.
 Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập. 
	b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
	Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.
	- Ngay - Thẳng - Thật
	Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật).
Từ
Từ láy
Từ ghép
Ngay
Ngay ngáy
Ngay thẳng, ngay ngắn...
Thẳng
Thẳng thắn
Ngay thẳng, thẳng tắp...
Thật
Thật thà
Sự thật, thẳng thật...
 Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.
 * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
 Giáo viên chốt lại: Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. 
Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
	+ Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa...
	+ Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ...
	c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
	Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
	Ví dụ1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
	Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
	Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung.
	Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng vào bài của mình.
 Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
 Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
 Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
 Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
 Nhà vua: Để làm gì ?
 Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.
 Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp.
	Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra.
	Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau:
	Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên.
	Hoa cà phê thơm lắm em ơi
	Hoa cùng một điệu với hoa nhài
	Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
	Như miệng em cười đâu đây thôi...
 Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh; các em đã hiểu.Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạng chân cụ thể: Hoà cà phê thơm như thế nào? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não):
	Thơm – lắm
	Trong – ngà
	Trắng – ngọc 
 Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.
c. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
1. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
 Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...
	Giáo viên hướng dẫn mẫu:
	+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
	+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?
	+ Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.
	Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có 

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_vai_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day.docx