SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1
Mục tiêu chủ yếu đối với môn Tiếng việt ở lớp Một là tất cả các em đều biết đọc thông, viết thạo. Từng bước hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học. Đối với học sinh yếu, việc hướng dẫn cho các em biết các kỹ năng nói trên là một việc làm đòi hỏi sự kiên trì của cả giáo viên và học sinh. Giúp các em học tập dần dần tiến bộ hơn, giúp các em nắm bắt kịp thời bài đã học, các em không còn chán học nữa mà tự tin và hứng thú trong tiết học. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình.
Với đối tượng học sinh yếu ở lớp Một - Lớp đầu cấp, việc dạy cho các em biết đọc thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp Một thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn. Đặc điểm của việc dạy tập đọc lớp Một chính là bước chuyển tiếp từ dạy học vần sang dạy tập đọc. Vì vậy học vần có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng, vì nó là phần quan học mở đầu lớp đầu tiên của cấp Tiểu học. Có học phần này, học sinh mới chiếm lĩnh được một công cụ giao tiếp quan trọng: Chữ viết ghi âm Tiếng Việt. Đây chính là phương tiện để các em có điều kiện học tốt các môn khác và học lên các lớp trên.
Tiết tập đọc ở lớp Một vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của tiết tập đọc lớp Một là củng cố hệ thống âm vần đã đọc nhất là các vần khó đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết đọc diễn cảm. Đó là việc rất khó nhất là đối với đối tượng học sinh yếu phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, mà lại ở vùng nông thôn như xã Hà Yên. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1”.
MỤC LỤC Tên mục Nội dung Trang Mục lục 1 I Mở đầu 2 1 Lí do chọn đề tài: 2 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 II Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 3 1 Cơ sở lí luận 4 2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 3 Các giải pháp 5 4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 15 III Kết luận, kiến nghị. 16 1 Kiến nghị 16 2 Đề xuất 16 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Mục tiêu chủ yếu đối với môn Tiếng việt ở lớp Một là tất cả các em đều biết đọc thông, viết thạo. Từng bước hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học. Đối với học sinh yếu, việc hướng dẫn cho các em biết các kỹ năng nói trên là một việc làm đòi hỏi sự kiên trì của cả giáo viên và học sinh. Giúp các em học tập dần dần tiến bộ hơn, giúp các em nắm bắt kịp thời bài đã học, các em không còn chán học nữa mà tự tin và hứng thú trong tiết học. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Với đối tượng học sinh yếu ở lớp Một - Lớp đầu cấp, việc dạy cho các em biết đọc thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp Một thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn. Đặc điểm của việc dạy tập đọc lớp Một chính là bước chuyển tiếp từ dạy học vần sang dạy tập đọc. Vì vậy học vần có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng, vì nó là phần quan học mở đầu lớp đầu tiên của cấp Tiểu học. Có học phần này, học sinh mới chiếm lĩnh được một công cụ giao tiếp quan trọng: Chữ viết ghi âm Tiếng Việt. Đây chính là phương tiện để các em có điều kiện học tốt các môn khác và học lên các lớp trên. Tiết tập đọc ở lớp Một vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của tiết tập đọc lớp Một là củng cố hệ thống âm vần đã đọc nhất là các vần khó đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết đọc diễn cảm. Đó là việc rất khó nhất là đối với đối tượng học sinh yếu phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, mà lại ở vùng nông thôn như xã Hà Yên. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1”. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài này chỉ ra : Các biện pháp để giúp học sinh yếu lớp Một đọc thông, đọc không sai. 3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 ở trường Tiểu học Hà Yên – Hà Trung. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong qua trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: a. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. Là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở lí luận của đề tài, hình thành gia thuyết khoa học, dự đoán về những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mô hình lí thuyết hay thực nghiệm ban đầu. b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Cũng như trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp điều tra trong giáo dục được dùng thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát phương pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu của mình. c. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu. Xử lí và phân tích số liệu hay dữ liệu nghiên cứu là một trong các bước cơ bản của một nghiên cơus, bao gồm xác định vấn đề nghiên cứu, thu thập số liệu, xử lí số liệu, phân tích số liệu và báo cáo kết quả. Xcas định rõ vấn đề nghiên cứu giúp việc thu thập số liệu được nhanh chóng và chính xác hơn.Để có cơ sở phân tích số liệu tốt thì trong quá trình thu thập phải xác định trước các yêu cầu của phân tích để có thể thu thập đủ và đúng số liệu như mong muốn. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Rèn đọc cho học sinh yếu là việc rất quan trọng và cấp bách cho học sinh ở ngay đầu cấp tiểu học. Là giáo viên dạy lớp 1, tôi coi việc phụ đạo học sinh yếu là khâu quan trọng hàng đầu. Bước vào lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của các em. Kỹ năng đọc của học sinh lớp Một cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết. Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tâm lý, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi các em sẽ thích học. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Qua quan sát và nghiên cứu ở lớp Một tôi thấy hầu hết các em học sinh yếu không đọc được bài là do khả năng tiếp thu của các em chậm, không nhớ các âm hai, ba con chữ dẫn đến không ghép được tiếng, từ. Qua tìm hiểu thực tế ở lớp và ở gia đình, tôi nhận định nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do: a. Đối với học sinh. Cùng vào lớp Một nhưng mức độ chuẩn bị tâm thế của mỗi trẻ đều khác nhau, một số trẻ đã qua môi trường mẫu giáo đã được làm quen với môi trường học tập, số khác đăc biệt với những gia đình khó khăn thì các em chưa được chuẩn bị gì, hoàn toàn xa lạ với trường lớp, với hoạt động học tập. Một số học sinh do học trước chương trình nên cảm thấy chán nản, không hứng thú khi đến lớp. Nhưng đến lúc bạn bè bắt nhịp với mình thì các em không theo kịp vì chủ quan, ỷ lại. Được vào lớp Một, trẻ nhận được sự trợ giúp cũng khác nhau từ phía gia đình, người thân. Điều kiện phụ huynh gia đình bận công việc đồng áng hay đi làm trong các công ty, để con cho ông bà đi làm ăn xa nên không có thời gian dạy con mà tất cả là nhờ nhà trường. b. Đối với giáo viên. Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy. Khả năng thiết kế, tổ chức các trò chơi hoặc học tập còn hạn chế. c. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. Bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu Sĩ số lớp Số HS được đánh giá Các lần đánh giá Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % 32 32 Lần 1 ngày 17/10/2016 12 37,5 20 62,5 Trên đây là bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu, số em hoàn thành là 12 em, chưa hoàn thành là 20 em. Tỉ lệ học sinh hoàn thành là quá thấp, nếu tỉ lệ như vậy sẽ không đúng với yêu cầu trường chuẩn Quốc gia mức độ 2. Từ thực trạng tôi đã nêu trên, để giúp học sinh đọc tốt hơn, tôi đã đưa ra một số kinh nghiệm "Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1." 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những giải pháp sau: * Giải pháp 1: Giáo viên xác định được yêu cầu chung của môn học Mục tiêu của môn Tiếng Việt đặt ra là hoàn thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (Nghe - Nói - Đọc - Viết) để học sinh tập giao tiếp trong các môi trường họat động của lứa tuổi. Ngoài ra còn hình thành và phát triển những phẩm chất như tính chính xác, tỷ mỉ, cẩn thận, chu đáo, tính kỷ luật, tiết kiệm, yêu lao động và tính sáng tạo... Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, biết giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Học hết lớp 1, các em phải đạt yêu cầu sau: a. Về kỹ năng đọc thành tiếng. - Đọc thông thạo và tốc độ cần đạt là khoảng 30 tiếng/1 phút - Biết cầm sách đọc đúng tư thế. - Biết đọc liền từ, đọc cụm từ, đọc liền câu, ngắt, nghỉ, hỏi đúng lúc, đúng chỗ. b. Kỹ năng đọc hiểu Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu đã đọc (Độ dài cần khoảng 10 tiếng). Học thuộc lòng một số bài văn vần (thơ, ca dao) trong sách giáo khoa. * Giải pháp 2: Khảo sát và phân loại đối tượng học sinh. Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy: Tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lí do dễ thấy là các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học tập. Nhận biết được hoàn cảnh cụ thể của từng em tôi lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp sao cho các em không cảm thấy bị gò bó mà ngược lại trong từng tiết học các em cảm thấy hứng thú. Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học như bộ chữ thực hành, bảng găm. Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà. Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau. Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm Sắp xếp học sinh yếu ngồi bàn đầu để tiện cho việc đi lại và theo dõi uốn nắn. Nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh yếu, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái, tôi dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản. * Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm vững các nét cơ bản. Tôi dạy thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi: Nét sổ thẳng Nét ngang Nhóm 1 \ Nét xiên phải / Nét xiên trái Nét móc trên Nhóm 2 Nét móc dưới Nét móc hai đầu Nét cong hở phải Nhóm 3 Nét cong hở trái Nét cong kín Nét khuyết trên Nhóm 4 Nét khuyết dưới * Giải pháp 4: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng học âm. Dạng bài thứ nhất làm quen với âm và chữ cái. Ở dạng bài này các tiết 3, 4, 5 là các tiết học về các thanh của tiếng. Do đặc điểm của học sinh trong lớp là nhiều em không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã, vì thế giáo viên chú ý đến rèn cho học sinh phát âm thật chính xác các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã, kết hợp hướng dẫn học sinh phân biệt các dấu thanh, đưa ra mẫu đọc đúng, sai để học sinh tự nhận xét và phân biệt. a. Khi dạy học về thanh Ví dụ: Tiếng "vẽ" có thanh gì ? (thanh ngã) Tiếng "vé" có thanh gì ? (thanh sắc) Giáo viên cho học sinh phát âm các tiếng trên và sửa lỗi cho học sinh phát âm lại cho thật chuẩn. Sau các tiết học này, giáo viên luôn lưu ý học sinh khi dạy đọc, giúp các em nhớ được các dấu thanh để phân biệt. Mặt khác ngay trong mỗi bài luyện đọc của các em, tôi luôn đưa ra các từ để giúp học sinh phân biệt, đó là từ có chứa tiếng có dấu thanh gì, bằng cách áp dụng cách tìm các từ trong thực tế chứa tiếng đó. Ví dụ: Vẽ trong từ "tập vẽ, vẽ chuyện..." còn vé trong từ "vé gửi xe, vé xem phim, vé xem ca nhạc..." b. Khi dạy học về âm và chữ cái - Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản và thanh một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái. Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Ví dụ: Học bài ê, v Giáo viên hướng dẫn học từng thao tác. - Thao tác 1: Đọc phân tích tiếng có thanh ngang. bê b ê Muốn đánh vần được tiếng đó, phải tách tiếng ra 2 phần (giáo viên vẽ mũi tên xuống, vạch ở giữa để chia 2 phần mô hình) Nhập lại và phát âm thành tiếng (vẽ mũi tên ngược lại) Hướng dẫn cho học sinh: Để đọc được tiếng trong mô hình các em tưởng tượng trong đầu là tách nó ra hai phần, sau đó ghép hai phần lại thì được cả tiếng (chỉ trên mô hình cho học sinh nhìn thấy). Chỉ vào mô hình đánh vần bờ - ê - bê. Thao tác hai: Đọc thành tiếng có các thanh khác. + Giáo viên vẽ mô hình: + Hướng dẫn cho học sinh: Các em tách tiếng có thanh ngang và dấu thanh ra, sau đó thực hiện các thao tác tương tự, khi tổng hợp lại nhập dấu thanh để tạo thành tiếng, nếu không sẽ trở thành tiếng có thanh ngang. + Giáo viên ghi vào mô hình một số tiếng cho học sinh đọc. T: bà HS: ba huyền bà T: Bán HS: ban sắc bán T: kẽ HS: ke ngã kẽ Tóm lại giáo viên phải giúp học sinh khắc sâu ba thao tác: - Em nhìn cả chữ đó (Chỉ vào chữ trên mô hình) - Em tách tiếng ra hai phần (lưu ý học sinh phân tích thầm trong đầu) - Em nhập hai phần lại (tổng hợp trong đầu). Vậy chữ bé đọc là bé (một tiếng liền). Với ba thao tác trên giáo viên luyện cho học sinh làm thành thục và thật nhớ để sao cho trở thành kỹ năng không thể thiếu khi các em luyện đọc, nhằm giúp các em có thể đọc trơn, đọc nhanh bài theo yêu cầu. Từ những thao tác đó, hình thành cho học sinh thói quen làm việc trong đầu và nhẩm thầm để đọc trơn, chứ không phải đánh vần bằng miệng, vừa tốn thời gian vừa không phát triển được khả năng đọc của các em. c. Khi dạy những âm đễ lẫn lộn Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ để học sinh dễ phân biệt các con chữ và cách đọc, giúp các em không bị nhầm lẫn và đọc sai đặc biệt là các âm l - n , x- s. Ví dụ: Các âm mà các em hay đọc sai là: Âm s và âm x + Âm x: Gồm nét cong hở trái và cong hở phải . Đọc là “xờ” + Âm s: Gồm 1 nét xiên phải, nét thắt, nét cong hở - trái thẳng. Đọc là “sờ” Với 2 âm trên tôi hướng dẫn cách phát âm, đồng thời cho một số học sinh khá, giỏi đọc mẫu cho đối tượng học sinh yếu nghe và cho các em này đọc nhiều lần . Ví dụ: Khi đọc âm “xờ”: khe hẹp giữa đầu lưỡi và răng – lợi, hơi thoát ra xát nhẹ, không có tiếng thanh. Khi đọc âm “sờ”: uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không có thanh. Ví dụ: Các âm hay bị nhầm lẫn là: Âm d và âm b + Âm d : Gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải. Đọc là : “ dờ” Khi đọc “ dờ”: đầu lưỡi gần chạm lợi, hơi thoát ra xát, có tiếng thanh. Học sinh tìm thêm những tiếng phát âm có “ dờ” rồi tôi hướng dẫn các em đọc những vừa tìm được như: dê, dì, dẻ.. + Âm b: Gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái Đọc là : “bờ”. Khi đọc “bờ”: môi ngậm lại, bật hơi ra, có tiếng thanh. Học sinh tìm thêm những tiếng phát âm có “ bờ” rồi tôi hướng dẫn các em đọc những tiếng vừa tìm được như: bê, bò, bẻ.. Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. Ví dụ: + Các âm ghép: ch, nh, th, kh, gh, ph, ngh. + Còn lại các âm : gi, tr, qu, ng tôi cho học kỹ về cấu tạo của từng âm. + Đọc: cờ-ê-kê (tiếng kê)/viết ka-ê-kê (chữ kê), nhắc HS: âm cờ được ghi bằng con chữ ka + Đọc: cờ-oa- qua (tiếng qua)/viết cu-ua- qua (chữ qua), nhắc HS: âm cờ được ghi bằng con chữ cu. Kết hợp với các dấu thanh để có các tiếng tương tự. Khi đọc các câu, từ (trong phần đọc ứng dụng) phải đọc trơn (Mẹ à, Dì Hà chả kể gì cả), không đánh vần từng tiếng, nếu học sinh không đọc được là do học phần trước không kỹ, phải quay về các thao tác như những bài đầu. Khi dạy, bắt buộc giáo viên phải phát âm chuẩn, dùng từ chuẩn, khi nói: các em đọc âm, vần, tiếng/ các em viết con chữ, viết chữ; âm cờ được ghi bằng con chữ cờ (c),con chữ ka (k), con chữ cu (q); đánh vần: cờ -a-ca; cờ- e- ke; cờ- ua- cua; cờ-oa- qua + Phân từng cặp: ch - tr, ng - ngh, c - k, g - gh để học sinh phát âm chính xác. Hầu hết số học sinh yếu trong lớp không nhớ được cách đọc của những âm hai con chữ ghép lại với nhau, các âm này rất khó nhớ nó là nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu khó khăn trong việc ghép tiếng. Nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết, nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm, đồng thời tôi giao bài về nhà hôm sau kiểm tra sửa sai và động viên dù các em có tiến bộ rất nhỏ. Ngoài ra khi dạy những âm khó này tôi thường cho các em tìm những vật, đồ vật có tên gọi bắt đầu bằng những âm đang học. Tôi còn cung cấp thêm cho các em biết và đọc cho các em nghe để các em quen dần với cách phát âm. Ví dụ: khi học âm “nhờ” thì tôi cho các em biết những tiếng như: nhà, nhu, nhe và đọc cho các em nghe, qua đó các em đọc theo. Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn vận dụng linh hoạt các phương pháp để các em tiến bộ một cách nhanh nhất, ưu tiên đối tượng học sinh yếu được lên bảng nhiều hơn so với những học sinh khác. * Giải pháp 5: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng học vần. Dạy bài học âm vần mới và ôn tập âm vần (dạng bài thứ 2 và thứ 3): Ở dạng bài này yêu cầu học sinh nhận biết thuộc các chữ cái, các vần ghép được, vì vậy ngay bài đầu tiên giáo viên giúp học sinh cách đọc phân tích một tiếng (đọc đánh vần). Nắm chắc được bài này sẽ giúp các em phân tích tiếng được nhanh hơn, đọc trơn được bài và đọc thông thạo. Để giúp các em học tốt phần vần, tôi tập cho các em thói quen: Nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em nắm vững. Sang phần học vần, chương trình được sắp xếp theo kiểu các vần được kết thúc bằng các âm i, n , u, m, nh .... Chính vì vậy mà học sinh rất khó nhớ và hay nhầm lẫn giữa các vần, hạn chế và không giúp các em phát triển năng lực cảm nhận về ngữ âm, khả năng phân tích tổng hộp ngữ âm để tạo ra những vần mới. Để khắc phục được hạn chế trên, tôi sắp xếp theo kiểu vần có âm chính: Ví dụ: Tiếng la có a làm phần vần; kiểu vần có âm đệm và âm chính: Ví dụ như vần ua; kiểu vần có âm chính và âm cuối: Ví dụ vần an; kiểu vần có âm đệm, âm chính, âm cuối: Ví dụ: Như vần oan. Khi dạy các vần đầu tiên có liên quan đến cách sắp xếp này; giáo viên giới thiệu và luyện cho học sinh nhận biết các vần theo kiểu nguyên âm tròn môi (o; u;ơ) và không tròn môi (i; e; ê; ơ; ư; a) như vậy học sinh nắm bắt được: đọc những tiếng chứa vần có âm đệm phải đọc tròn môi. Những kiến thức cơ bản ấy giúp cho các em biết được từ các vần không có âm đệm, nếu chỉ đọc tròn môi vần đó sẽ (thêm âm đệm) tạo ra từ mới. Ví dụ: i (không tròn môi); đọc tròn môi ta được vần mới: uy. Hay an (không tròn môi) - Đọc tròn môi ta được vần mới: oan. Cứ tiếp tục làm theo mẫu trên học sinh sẽ tự mình tạo các vần mới một cách chính xác và thành thạo. Từ đó, giúp các em phát âm cũng chính xác các tiếng có vần vừa đưa ra. Sang kiểu vần có nguyên âm đôi; chương trình mới không đề cập tới việc giới thiệu các vần này nhưng tôi nghĩ rằng giới thiệu cho các em biết các nguyên âm đôi là rất cần thiết và cũng phù hợp với khả năng tiếp thu của các em. Qua các bài học vần có liên quan đến các nguyên âm đôi, tôi đã giới thiệu cho học sinh nhận biết ba nguyên âm đôi (iê; uơ; ươ) là: mỗi nguyên âm đều mang tính chất của hai âm đơn. Ví dụ: Nguyên âm đôi sẽ mang tính chất của i và ê. Chính vì các nguyên âm đôi này mang tính chất của cả hai con chữ nên khi đọc các em đọc liền nhau không tách rời, độ cao của hai con chữ trong nguyên âm bằng nhau; ta không nhấn mạnh con chữ nào, vì nếu nhấn mạnh thì đọc các tiếng sẽ bị sai. Ví dụ: Tiếng hiên nếu đọc nhấn mạnh i thì sẽ trở thành tiếng hin, nếu nhấn mạnh ê thì sẽ trở thành tiếng hên. Để giúp các em đọc đúng hơn, việc chú ý đến cách phân biệt vần là việc mà mỗi giáo viên nên làm ngay trong mỗi tiết dạy. Ví dụ: Dạy vần oan thì giáo viên đưa ra vần an để học s
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh_yeu_lop_1.doc