Một số kinh nghiệm dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 trong phân môn học vần ở trường tiểu học thị trấn Cẩm Thủy

Một số kinh nghiệm dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 trong phân môn học vần ở trường tiểu học thị trấn Cẩm Thủy

Nói là một trong những hoạt động giao tiếp cần thiết của mỗi con người. Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thông tin đến các đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy mà ngay từ khi bước vào lớp 1, SGK đã rất chú trọng đến việc dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh tiểu học.

Nói, là một trong 4 kỹ năng cơ bản( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và phải đạt được khi hoàn thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói, đặt nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Đồng thời, rèn kĩ năng nói sẽ tạo cho các em có được sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Các em biết sử dụng từ ngữ trong giao tiếp một cách chính xác, phong phú, phát huy trí tưởng tượng về ngôn ngữ theo 1 chủ đề, một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

Việc rèn kỹ năng nói là giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây thơ của con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình và diễn đạt suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ nói của mình, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao tiếp.

Hiện nay phần đa giáo viên đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng nói cho học sinh tiểu học. Tuy nhiên ngay từ lớp 1để rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói thành câu, diễn đạt đủ ý, thành một đoạn văn cho học sinh lớp 1 một cách có hiệu quả lại là vấn đề mà không phải tất cả giáo viên có thể làm được. Với lý do trên, tôi xin được trình bày kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 trong phân môn Học vần ở trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy”

 

doc 23 trang thuychi01 8394
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số kinh nghiệm dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 trong phân môn học vần ở trường tiểu học thị trấn Cẩm Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẨM THỦY
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY LUYỆN NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG PHÂN MÔN HỌC VẦN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN CẨM THỦY
Người thực hiện: Cù Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2017
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC VẦN 
CHO HỌC SINH LỚP 1 ĐẠT KẾT QUẢ CAO 
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN HUYỆN CẨM THỦY 
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1
1. MỞ ĐẦU
1
2
1.1. Lí do chọn đề tài
1
3
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
4
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
5
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1
6
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
7
2.1. Cơ sở lí luận
2
8
2.2. Thực trạng
2
9
2.3. Các giải pháp đã sử dụng
4
10
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
12
11
3. KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ
13
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Nói là một trong những hoạt động giao tiếp cần thiết của mỗi con người. Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thông tin đến các đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy mà ngay từ khi bước vào lớp 1, SGK đã rất chú trọng đến việc dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh tiểu học.
Nói, là một trong 4 kỹ năng cơ bản( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và phải đạt được khi hoàn thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói, đặt nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Đồng thời, rèn kĩ năng nói sẽ tạo cho các em có được sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Các em biết sử dụng từ ngữ trong giao tiếp một cách chính xác, phong phú, phát huy trí tưởng tượng về ngôn ngữ theo 1 chủ đề, một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. 
Việc rèn kỹ năng nói là giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây thơ của con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình và diễn đạt suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ nói của mình, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao tiếp.
Hiện nay phần đa giáo viên đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng nói cho học sinh tiểu học. Tuy nhiên ngay từ lớp 1để rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói thành câu, diễn đạt đủ ý, thành một đoạn văn cho học sinh lớp 1 một cách có hiệu quả lại là vấn đề mà không phải tất cả giáo viên có thể làm được. Với lý do trên, tôi xin được trình bày kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 trong phân môn Học vần ở trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp học sinh lớp 1 có kĩ năng nói thành công, diễn đạt được ý một cách rõ ràng. Từ đó giúp các em khả năng mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu: 
Đề tài nghiên cứu, tổng kết một số vấn đề về kinh nghiệm dạy học luyện nói cho học sinh lớp 1 ở trưởng Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy trong phân môn học vần, cụ thể như: Nói đủ câu, đủ đoạn, nói đúng chủ đề, nói theo khả năng...
	1.4. Phương pháp nghiên cứu:
	- Phương pháp nghiên cứu lý luận. 
- Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
	- Phương pháp dạy học thực tiễn trên lớp 1B.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
	Đối với học sinh lớp 1, đây là giai đoạn các em bắt đầu làm quen với một giai đoạn học tập mới với môi trường, hình thức tiếp nhận kiến thức hoàn toàn khác với bậc học Mầm Non. Ở giai đoạn này, các em còn đang gặp nhiều khó khăn về mức độ nhận thức, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ còn rất nhiều hạn chế. 
Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về: Mục tiêu giáo dục; Nội dung và phương pháp dạy học; Cách thức đánh giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề; Tự chiếm lĩnh tri thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.
	Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Đối với lớp Một, Tiếng Việt là một môn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình vì nó đảm nhiệm bước đầu tiên cho học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng. Trong đó, “nói” là một kĩ năng hết sức quan trọng của bậc tiểu học. 
Nói là một hoạt động diễn ra thường xuyên của con người nhằm truyền tải những nội dung, suy nghĩ cần trao đổi của người nói. Như vậy, luyện nói tốt tức là tạo được cơ sở nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này cho học sinh. Ngoài ra, luyện nói cho học sinh, sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, làm cho vốn từ ngữ của các em phong phú hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng:
2.2.1.1. Thực trạng dạy học của giáo viên:
Qua thực tế giảng dạy chương trình lớp 1, qua dự giờ thao giảng, sinh hoạt chuyên môn ở trường Tiểu học Thị Trấn hay qua các kỳ thi giáo viên giỏi cấp trường, huyện. Tôi nhận thấy:
	- Đa số giáo viên khối lớp 1 rất ngại dạy học vần tiết 2 vì trong các tiết 2 thường có hoạt động luyện nói. 
	- Giáo viên còn xem nhẹ hoạt động luyện nói, chỉ chú trọng cho hoạt động đọc, viết. Thời gian luyện nói ít, nhiều khi luyện nói chỉ mang tính hình thức, ít học sinh được nói.
	- Giáo viên ít đầu tư cho các tiết 2 của tiết học vần, tập đọc .
	- Ngại chuẩn bị tranh ảnh, đồ dùng dạy học. 
	- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện nói theo tranh còn sơ sài. Hoặc đôi khi đi quá xa dễ lẫn sang như dạy học đạo đức hay tự nhiên xã hội.
	- Khi hướng dẫn hoạt động luyện nói cho học sinh, giáo viên thường hay lúng túng không biết hướng dẫn học sinh luyện nói như thế nào cho hiệu quả.
	- Giáo viên sử dụng tranh minh hoạ để định hướng cho phần luyện nói chưa hiệu quả.
2.2.1.2. Thực trạng học của học sinh:
	- Các em thường hay rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin nói trước đông người. Khi đến lớp các em thường nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói.
	- Khi đi học mầm non các em cũng không được hướng dẫn nói phải đủ câu, đủ ý. Chính vì vậy dẫn đến khả năng giao tiếp của các em là rất hạn chế.
	- Trong quá trình giao tiếp ở nhà, các em thường có thói quen nói không đủ câu, không đủ ý. Khi được hỏi, các em chỉ trả lời trống không, không biết trả lời thế là chưa đủ câu.
	- Một số chủ đề lạ, chưa thật sự gần gũi với cuộc sống của các em như: ruộng bậc thang, thung lũng, suối, đèo, lễ hội, vó bè, đồi núi nên các em khó hình dung để phát huy khả năng nói của mình một cách phong phú.
	- Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học sinh không được luyện nói nhiều.
2.2.2. Nguyên nhân :
	* Đối với giáo viên:
	- Giáo viên thường chưa nghiên cứu kỹ nội dung của chủ đề luyện nói và tranh phục vụ cho bài luyện nói. 
	- Giáo viên chưa thực sự nhận thức hết vai trò của hoạt động luyện nói cho học sinh trong quá trình dạy học nên dễ dẫn đến sa vào việc dạy luyện nói thành tiết dạy học đạo đức.
	- Thiếu một số tranh ảnh để minh hoạ cho chủ đề cần luyện nói. Đôi khi có tranh nhưng một số giáo viên lại ngại thao tác tranh.
	- Giáo viên chưa có các hình thức động viên, khuyến khích học sinh luyện nói.
	- Chưa áp dụng một cách triệt để các phương pháp đổi mới trong dạy học.
	* Đối với học sinh:
	- Khả năng quan sát một cách chi tiết còn kém.
	- Gia đình không chú ý đến việc sửa cách nói, cách trả lời cho các em cho đúng. 
	- Khi nói về một vấn đề gì thường nói theo người lớn, nói rút gọn, chưa biết cách sắp xếp diễn đạt ý.
2.2.3. Kết quả : 
	Trước những thực trạng mà thực tế dạy học của khối lớp 1 gặp phải, qua dự giờ đồng nghiệp, năm học 2015- 2016, tôi đã theo dõi và đã tiến hành khảo sát khả năng nói của học sinh lớp 1A ( sĩ số 35 học sinh) qua các giai đoạn học tập. Và khảo sát kỹ năng nói của học sinh lớp 1B (sĩ số 35 học sinh) đầu năm học 2016- 2017 kết quả thu được như sau:
Lớp 
(35HS)
 Mức độ
 đạt
Thời 
Điểm
 Nói thành câu, thành đoạn 
 Nói đủ câu, lưu loát, đúng chủ đề 
 Nói chưa đủ câu, nói chưa lưu loát, chưa đúng chủ đề 
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
1A
Đầu năm học
5
14,3
10
28,6
20
57,1
1A
Cuối học kỳ 1
10
28,6
11
31,4
14
40
1A
Cuối học kỳ 2
12
34,3
12
34,3
11
31,4
 1B
Đầu năm học 2016-2017
4
11,4
9
25,7
22
62,9
	Năm học 2016 - 2017, tôi được ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy lớp 1B. Xuất phát từ thực tế của vấn đề dạy luyện nói cho học sinh lớp 1, tôi đã trăn trở rất nhiều, làm thế nào để học sinh lớp 1 có thể nói một cách lưu loát, thành câu, thành đoạn là việc làm rất cần thiết trong dạy học phân môn Học Vần. 
	Ngay từ đầu năm học, để giúp học sinh nói một cách lưu loát, trôi chảy, thành câu, thành đoạn tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp khi dạy luyện nói cho học sinh lớp 1.
	2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong quá trình dạy học người giáo viên không ngừng tìm tòi, sáng tạo, lựa chọn các biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Với việc vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học sẽ tạo được sự hứng thú học tập, giúp học sinh dễ tiếp thu bài nhanh, nắm vững kiến thức. Để giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nói và phát triển khả năng diễn đạt ý một cách phong phú, tự tin, hình thành kỹ năng giao tiếp cơ bản ngay từ khi bước chân vào lớp 1 tôi đã tiến hành áp dụng một số biện pháp sau:
	2.3.1. Rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý:
Đối với học sinh lớp 1, việc nói năng của các em còn mang tính chất tự phát. Trên thực tế, khi trả lời giáo viên hoặc trả lời các câu hỏi bài tập mà giáo viên đưa ra các em thường nói câu cụt lủn, nói trống không, không đầy đủ câu. Mặt khác qua nhiều lần dự giờ thao giảng của đồng nghiệp, tôi nhận thấy khi học sinh trả lời như vậy, giáo viên cũng đã sửa câu trả lời cho học sinh nhưng chưa triệt để. 
Ví dụ: Khi dạy bài 5 về Dấu huyền
Giáo viên treo tranh con cò, hỏi: “Tranh vẽ gì?” Thay vì phải trả lời: “Thưa cô, tranh vẽ con cò ạ”. Thì học sinh thường chỉ trả lời: “con cò”. Hay: Trong tiếng “cò” có dấu gì ? học sinh thường trả lời: “dấu huyền”, chứ không phải là: “Thưa cô, trong tiếng cò có dấu huyền”. Bởi lẽ do thói quen hàng ngày giao tiếp, do vốn từ và khả năng nhớ nội dung câu hỏi của học sinh còn hạn chế. 
Chính vì vậy ngay từ khi bắt đầu bước chân vào lớp 1, với 6 bài học đầu tiên về âm và dấu thanh. Đồng thời áp dụng với tất cả các tiết học khác như: toán, tự nhiên xã hội, đạo đứcTôi bắt đầu tập trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói cho đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi của giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Khi dạy bài 9: Giáo viên đưa tranh cho học sinh quan sát và hỏi: “Tranh vẽ con gì ?” (cho học sinh trả lời)
Nếu học sinh trả lời “Con bò” hoặc không biết cách trả lời thì giáo viên hướng dẫn học sinh cách trả lời như: Nhắc lại một phần câu hỏi, khi trả lời phải kèm theo lời thưa cô (thầy). M: Thưa cô, tranh vẽ con bò. Sau đó cho học sinh nhắc lại.
Lúc đầu có thể giáo viên phải làm mẫu một vài lần, cho học sinh nhắc lại câu trả lời với hình thức cá nhân, nối tiếp và đôi khi cho học sinh đọc câu trả lời đồng thanh (cô đọc trước học sinh đọc lại sau). Với cách làm như vậy dần dần hình thành thói quen cho học sinh nói đủ câu, đủ ý và trả lời câu hỏi rõ ràng đầy đủ câu. Quan tâm uốn nắn sửa sai kịp thời cho các em ở mọi lúc, trong bất kỳ môn học nào, sau vài lần sửa các em đã ý thức được việc nói phải đầy đủ câu. 
Mặt khác học sinh lớp 1 các em còn rất ngây thơ, trong tâm trí các em cô giáo luôn là hình mẫu chuẩn, lí tưởng. Chính vì vậy mà mỗi lời nói, cử chỉ của cô giáo luôn là tấm gương để học sinh bắt chước. 
	2.3.2. Rèn cho học sinh kỹ năng nói thành câu, thành đoạn
Đối với học sinh lớp 1, vốn từ của các em rất hạn chế, nghèo nàn. Chính vì vậy khi diễn đạt một vấn đề nào đó mà các em nhìn thấy thường rất khô khan và cụt ý.
Ở mỗi bài học vần hay tập đọc thì sau mỗi chủ đề luyện nói thì mục tiêu cuối cùng là học sinh phải nói được 2 đến 3 câu về chủ đề đó. Chẳng hạn như mục tiêu cuối cùng của bài luyện nói : “Chia quà” này là học sinh phải nói được: “Trong tranh vẽ cảnh bà đang chia quà cho các cháu. Bà chia táo cho chị, chia chuối cho em. Hai chị em rất vui khi được bà chia quà”. 
 Nâng cao hơn đối với học sinh nói tốt thì học sinh phải nói được: “Trong tranh vẽ cảnh bà đang chia quà cho các cháu. Bà chia táo cho chị, chia chuối cho em. Hai chị em rất vui khi được bà chia quà. Ở gia đình em, em thường được bà (ông) chia bánh(kẹo) em rất thích mỗi khi được ông(bà) chia quà cho mình.”
Tuy nhiên phần đa học sinh chỉ có thể nói: “Tranh vẽ cảnh bà đang chia quà cho bé. Tranh vẽ bà chia táo cho chị, tranh vẽ bà chia chuối cho em”.
Chính vì vậy, giáo viên cần phải rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1. Khi học sinh đã quen và đây cũng là lúc mà các em bước vào các bài học âm vần, tập đọc bắt đầu có các chủ đề luyện nói tương ứng với mỗi bài học. Giáo viên bắt đầu tiếp tục rèn cho học sinh cách trình bày các chủ đề luyện nói thành câu, thành đoạn, đúng chủ đề luyện nói.
Ví dụ: Ở bài 39 chủ đề luyện nói là: Bà cháu. Phần đa học sinh chỉ có thể nói: “Tranh vẽ bà và cháu. Bà đang kể chuyện cho các cháu nghe”. Để giúp học sinh có thể nói thành một đoạn về chủ đề trên, trước hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời các câu hỏi gợi ý giáo viên đưa ra: Tranh vẽ gì ? Bà đang làm gì? Ánh mắt bà nhìn các cháu như thế nào? Các cháu đang làm gì? Thái độ ra sao? Ở gia đình em ai là người thường kể chuyện cổ tích cho em nghe?...
	Kết hợp với các câu hỏi làm điểm tựa để các em trả lời, khi hướng dẫn học sinh luyện nói giáo viên phải thường xuyên chú ý cách trình bày, sửa cho các em câu, từ, cách dùng từ ngữ để diễn đạt. Có như vậy mới hình thành cho học sinh nền nếp, thói quen trình bày một vấn đề nào đó phải có sự lô gíc. Đây cũng là tiền đề để học sinh có khả năng viết văn ở các lớp học tiếp theo.
	2.3.3. Hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề:
Mỗi chủ đề luyện nói luôn gắn liền với cuộc sống, môi trường quen thuộc, gần gũi với sự hiểu biết của các em. Đặc biệt ở mỗi bài học vần, tập đọc sẽ có chủ đề nói tương ứng. Chính vì vậy mà giáo viên cần xác định rõ, đúng mục tiêu của chủ đề luyện nói để hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề. 
 Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Giúp đỡ cha mẹ” ,”Con ngoan trò giỏi””Những người bạn tốt”. Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy đạo đức.Vì thế, để khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói:
- Em chỉ kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm ơn ai đó về điều gì? 
- Kể những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ của mình ?
- Kể những việc đã làm thể hiện em đã cố gắng để trở thành một người con ngoan trong gia đình, một người trò giỏi của trường học? ..
Hoặc khi dạy luyện nói những chủ đề về “Biển cả”; “Thung lũng, suối, đèo”; “Hươu, Nai, Gấu, Voi, Cọp”; “Sẻ, ri, bói cá, le le”; Gió, mây, mưa, bão, lũ”;thường dễ lẫn sang dạy tự nhiên xã hội. Do đó, tôi cũng cố gắng giúp học sinh hiểu rõ nội dung chủ đề luyện nói bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề, không sa vào tìm hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,.
Chẳng hạn với những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên như: gió, mây, mưa, bão, lũ,Tôi cho học sinh xem 1 số tranh ảnh liên quan đến các hiện tượng đó, học sinh sẽ nêu được tên của các sự vật trên. Sau đó, giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi gợi ý để các em cùng thảo luận với nhau về các hiện tượng thiên nhiên và tác hại của chúng.
 Với những chủ đề nói về động vật : Giáo viên có thể cho các em sắm vai tên của các con vật trong chủ đề cần luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của các em về chúng như: Em thích hay không thích con vật đó? Hoặc nói lên cảm nhận của mình: Tại sao em lại thích, không thích con vật đó?
	Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý SGK qua hình vẽ hay gợi ý ở SGV rất ít có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình ảnh không diễn tả hết nội dung chủ đề. Bởi vậy, nếu người giáo viên chỉ làm theo SGK, SGV không mở rộng thêm thì học sinh khó có thể nói được. Giáo viên chuẩn bị và đưa ra hệ thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở SGK để giúp các em tập trung những hiểu biết vốn có trong cuộc sống đề nói về chủ đề thông qua việc trả lời các câu hỏi của giáo viên. 
Vì vậy, giáo viên phải đầu tư trong bài soạn, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý đối với các đối tượng học sinh yếu thì mới có thể phát huy vốn sống, kiến thức thực tế của trẻ trong tiết học. 
Ví dụ : Với chủ đề "Ngày chủ nhật” - bài 69, trong SGV chỉ có 2 câu hỏi gợi ý. Giáo viên có thể đưa thêm một số câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời: Trong tranh vẽ cảnh gì? Em thấy những gì trong công viên? Ở công viên thường có những gì? Ngày chủ nhật, bố mẹ cho em đi chơi ở đâu? Em hãy kể về một ngày chủ nhật của em? Tùy theo đối tượng học sinh, giáo viên có thể cho học sinh nói theo khả năng của mình : 1 đoạn, 2 câu hay 1 câu.
	2.3.4. Lựa chọn hình thức, phương pháp và ĐDDH giúp học sinh luyện nói theo khả năng:
Mỗi bài học, mỗi chủ đề giáo viên lựa chọn các cách hướng dẫn, giới thiệu khác nhau tạo cho giờ học sinh động, gây hứng thú cho HS. Trong khi dạy luyện nói cho học sinh lớp 1, giáo viên cần sử dụng phối hợp nhiều hình thức, phương pháp, đồ dùng dạy học hỗ trợ, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các em sẽ thấy hứng thú hơn khi thực hành luyện nói. Bởi đây là giai đoạn tâm lí lứa tuổi của các em thích mới lạ nhưng cũng rất nhanh chán. Nếu rập khuôn một cách máy móc một hình thức hướng dẫn học sinh luyện nói dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú với hoạt động luyện nói. Đặc biệt trong một lớp sẽ có nhiều đối tượng học sinh. Chính vì vậy mà giáo viên cũng cần chia ra thành các nhóm chủ đề để chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng, tuỳ nội dung từng bài.
	2.3.4.1. Đối với những chủ đễ gần gũi với cuộc sống 
Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: Ba má; Quà quê; Nhà trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Điểm 10; Bữa cơm Giáo viên gợi mở cho học sinh nói qua vốn hiểu biết thực tế của các em, chọn lựa những hình thức trò chơi học tập, v.vChẳng hạn như: 
Với chủ đề nói về gia đình: Ba má, Bà cháu, Giúp đỡ cha mẹ,  giáo viên có thể tổ chức cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm sóc em hoặc những tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của mình. Hay với những chủ đề nói về hoạt động, mối quan hệ của các em ở trường như: Trong cặp sách của em, Các bạn lớp em, Xếp hàng vào lớp,Giáo viên tổ chức cho các em sắm vai để các em tự giới thiệu, nói về chủ đề đó bằng chính thực tế của các em.
Với chủ đề “Đá bóng” giáo viên có thể cho học sinh nhập vai kể lại một pha tranh bóng đá mình đã tham gia.
Với những chủ đề: Nặn đồ chơi; Ao choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh Học sinh sẽ được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp với thời tiết,và nói về những sản phẩm mà các em đã hoàn thành hoặc nói lên vì sao lại có sự lựa chọn ấy.
Khi học những chủ đề quen thuộc như: chủ đề “Xanh, đỏ, tím, vàng”- bài 64, chủ đề “Trong cặp sách của em”- bài 85,giáo viên có thể khuyến khích học sinh sưu tầm hình ảnh, vật thật mang đến lớp để quan sát , thảo luận cùng nhau qua đó có thể cùng nhau luyện nói. Chính đồ vật 

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_kinh_nghiem_day_luyen_noi_cho_hoc_sinh_lop_1_trong_ph.doc