SKKN Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú học tập môn Công nghệ lớp 11

SKKN Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú học tập môn Công nghệ lớp 11

Đất nước đang trên đường phát triển và ngày càng hội nhập tốt hơn với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Để đáp ứng tốt những yêu cầu lớn lao trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ vị trí, vai trò quan trọng của ngành giáo dục-đào tạo nguồn nhân lực con người cho thời kỳ mới để đất nước vươn tới nền kinh tế phát triển cao, có lực lượng sản xuất hiện đại thì đội ngũ trí thức đã và đang được chú trọng hơn bao giờ hết."Giáo dục đào tạo phải là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao hiệu lực và phát huy hiệu quả’’ - Trích:" Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của BCH TW Đảng".

Để đáp ứng được những yêu cầu đó ngành giáo dục cần thiết phải có sự đổi mới về mọi mặt.Tại Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo viết: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,chủ động,sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều ,ghi nhớ máy móc.Tập trung dạy cách học,cách nghĩ,khuyến khích tự học,tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển nhân lực.Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng,chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,nghiên cứu khoa học.Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.Do đó đổi mới trong dạy học môn công nghệ là yêu cầu tất yếu

Qua nghiên cứu lí luận và qua thực tế giảng dạy công nghệ ở trường phổ thông tôi nhận thấy: Đặc điểm nội dung kiến thức của môn công nghệ mang tính tổng hợp và gắn liền với thực tiễn cuộc sống.Nếu như không biết cách khai thác các phương tiện,đồ dùng dạy học và đổi mới phương pháp dạy học thì quá trình truyền thụ kiến thức trở nên khô khan học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động,giữa Thầy và Trò không có sự tác động qua lại nên dẫn đến hiệu quả giờ học không cao. Bằng kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm của mình tại trường THPT Chu Văn An tôi xin mạnh dạn đưa ra đề tài:“ Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú học tập môn công nghệ lớp 11”

 

doc 29 trang thuychi01 16343
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú học tập môn Công nghệ lớp 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I. MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước đang trên đường phát triển và ngày càng hội nhập tốt hơn với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Để đáp ứng tốt những yêu cầu lớn lao trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ vị trí, vai trò quan trọng của ngành giáo dục-đào tạo nguồn nhân lực con người cho thời kỳ mới để đất nước vươn tới nền kinh tế phát triển cao, có lực lượng sản xuất hiện đại thì đội ngũ trí thức đã và đang được chú trọng hơn bao giờ hết."Giáo dục đào tạo phải là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao hiệu lực và phát huy hiệu quả’’ - Trích:" Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của BCH TW Đảng".
Để đáp ứng được những yêu cầu đó ngành giáo dục cần thiết phải có sự đổi mới về mọi mặt.Tại Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo viết: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,chủ động,sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều ,ghi nhớ máy móc.Tập trung dạy cách học,cách nghĩ,khuyến khích tự học,tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển nhân lực.Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng,chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,nghiên cứu khoa học.Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.Do đó đổi mới trong dạy học môn công nghệ là yêu cầu tất yếu
Qua nghiên cứu lí luận và qua thực tế giảng dạy công nghệ ở trường phổ thông tôi nhận thấy: Đặc điểm nội dung kiến thức của môn công nghệ mang tính tổng hợp và gắn liền với thực tiễn cuộc sống.Nếu như không biết cách khai thác các phương tiện,đồ dùng dạy học và đổi mới phương pháp dạy học thì quá trình truyền thụ kiến thức trở nên khô khan học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động,giữa Thầy và Trò không có sự tác động qua lại nên dẫn đến hiệu quả giờ học không cao. Bằng kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm của mình tại trường THPT Chu Văn An tôi xin mạnh dạn đưa ra đề tài:“ Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú học tập môn công nghệ lớp 11”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài nhằm thảo luận, tìm ra các biện pháp nhằm tăng hiệu quả giờ học, thông qua đề tài bản thân tôi mong muốn cùng với các Thầy,Cô đồng môn trao đổi nhằm tìm ra được những mô hình dạy học, phương pháp, biện pháp tốt nhất áp dụng vào quá trình giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất
III. NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ trước mắt của giáo dục và đào tạo là phải tiến hành công cuộc cải cách giáo dục trong đó đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trò quan trọng
Môn công nghệ là môn khoa học có vai trò rất quan trọng và có tính thực tiễn cao.Thông qua môn học theo quan điểm giáo dục hiện đại là phải biết vận dụng kiến thức vào lĩnh vực kỹ thuật, lao động sản xuất và vào việc học tập các bộ môn khác, chính vì thế đòi hỏi người thầy phải lao động nghệ thuật sáng tạo để đem lại cho giáo dục kết quả cao nhất đó chính là phải đổi mới cách dạy của thầy, cách học của trò... Quá trình đổi mới phải được tiến hành đồng bộ cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp và cách đánh giá, đổi mới cách học của trò nhằm khơi dậy và phát huy năng lực tự học nhằm hình thành cho các em tư duy tích cực, độc lập sáng tạo nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề
2. Đối tượng nghiên cứu
-Nội dung chương trình SGK môn công nghệ lớp 11
-Phương pháp dạy học môn công nghệ
-Giáo viên, học sinh lớp 11 trường THPT Chu Văn An - TP Sầm Sơn
3. Thời gian thực hiện
Sáng kiến kinh nghiệm này được đúc rút từ quá trình giảng dạy môn công nghệ lớp 11 tại trường THPT Chu Văn An-Sầm Sơn từ tháng 8/2018 đến tháng 5/2019
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận-thực tiễn
Đề tài này là kết quả của quá trình nghiên cứu lí luận dạy học, quan điểm dạy học, thực tiễn dạy học ở trường phổ thông để vận dụng vào dạy học môn công nghệ
2. Phương pháp tổng kết đúc rút kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm này là kết quả của các quá trình:
- Thực hiện giảng dạy môn công nghệ lớp 11
- Thực hiện việc kiểm tra-đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Thực hiện điều tra, tổng hợp ý kiến của các đồng nghiệp và học sinh
PHẦN II.NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Về quan điểm đổi mới trong dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung là tích cực hoá hoạt động học tập, tích cực ở đây là tích cực trong hoạt động nhận thức, người học (dưới sự hướng dẫn của giáo viên) có niềm tin, niềm vui trong lao động và học tập dần dần hình thành phương pháp tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo trong quá trình học tập
2. Vận dụng quan điểm trên vào dạy học môn công nghệ
2.1. Phương hướng chung
Tổ chức các hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh vì mỗi quá trình dạy học được xác định gồm 3 thành tố cơ bản: (mục đích dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học). Ba thành tố này chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như: Điều kiện dạy học, đối tượng dạy học...
2.2. Định nghĩa về phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là những hình thức, cách thức, hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học
2.3. Một số phương pháp dạy học,kí thuật dạy học thường dùng khi dạy học môn công nghệ
-Phương pháp dạy học nêu vấn đề
-Phương pháp dạy học trực quan
-Phương pháp dạy học đàm thoại
-Phương pháp thuyết trình
-Phương pháp làm mẫu (dạy học thực hành)
-Kĩ thuật tổ chức hoạt động theo nhóm và hướng dẫn học sinh tự học
Sau đây tôi xin trích dẫn lại một số kĩ thuật dạy học tích cực mà tôi đã được tiếp thu qua các quá trình tập huấn do Sở Giáo dục &Đào Tạo tổ chức và cũng tôi nhận thấy rằng khi ứng dụng những kĩ thuật dạy học mới này vào dạy học thì hiệu quả giờ dạy được nâng lên rất nhiều, tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự đổi mới này
2.3.1. Kĩ thuật "Các mảnh ghép"
Thế nào là kĩ thuật "Các mảnh ghép"?
Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
- Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề)
- Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh:
- Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2).
Cách tiến hành kĩ thuật "Các mảnh ghép"
VÒNG 1: Nhóm chuyên gia
Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 người [số nhóm được chia = số chủ đề x n (n = 1,2,)]
Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ [Ví dụ: nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C,  (có thể có nhóm cùng nhiệm vụ)]
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình
Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành “chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2.
VÒNG 2: Nhóm các mảnh ghép
Hình thành nhóm 3 đến 6 người mới (1 – 2 người từ nhóm 1, 1 – 2 người từ nhóm 2, 1 – 2 người từ nhóm 3)
Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau
Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả
Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật "Các mảnh ghép"
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với nhiều chủ đề nhỏ trong tiết học, học sinh được chia nhóm ở vòng 1 (chuyên gia) cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Phiếu học tập mỗi chủ đề nên sử dụng trên giấy cùng màu có đánh số 1,2,,n (nếu không có giấy màu có thể đánh thêm kí tự A, B, C, ... . Ví dụ A1, A2, ... An, B1, B2, ..., Bn, C1, C2, ..., Cn).
- Sau khi các nhóm ở vòng 1 hoàn tất công việc giáo viên hình thành nhóm mới (mảnh ghép) theo số đã đánh, có thể có nhiều số trong 1 nhóm mới. Bước này phải tiến hành một cách cẩn thận tránh làm cho học sinh ghép nhầm nhóm.
- Trong điều kiện phòng học hiện nay việc ghép nhóm vòng 2 sẽ gây mất trật tự.
2.3.2. Kĩ thuật "Khăn trải bàn"
Thế nào là kĩ thuật "Khăn trải bàn"?
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh
Cách tiến hành kĩ thuật "Khăn trải bàn"
- Hoạt động theo nhóm (4 người / nhóm) (có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)
Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật "Khăn trải bàn"
- Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi.
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy "khăn trải bàn" lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn
- Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
2.3.3. Kĩ thuật "Động não"
Thế nào là kĩ thuật "Động não"?
Động não (công não) là một kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra "cơn lốc” các ý tưởng). Kỹ thuật động não do Alex Osborn (Mỹ) phát triển, dựa trên một kỹ thuật truyền thống từ Ấn độ.
Quy tắc của động não
Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các thành viên;
Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày;
Khuyến khích số lượng các ý tưởng;
Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
Các bước tiến hành:
Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề;
Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý kiến, không đánh giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối nhau;
Kết thúc việc đưa ra ý kiến;
Đánh giá:
Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng
- Có thể ứng dụng trực tiếp;
- Có thể ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm;
- Không có khả năng ứng dụng.
Đánh giá những ý kiến đó lựa chọn
Rút ra kết luận hành động.
Ứng dụng khi nào?
Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề;
Tìm các phương án giải quyết vấn đề;
Thu thập các khả năng lựa chọn và ý nghĩ khác nhau.
Ưu điểm
Dễ thực hiện;
Không tốn kém;
Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể;
Huy động được nhiều ý kiến;
Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia.
Nhược điểm
Có thể đi lạc đề, tản mạn;
Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích hợp;
Có thể có một số học sinh "quá tích cực", số khác thụ động. Kỹ thuật động não được áp dụng phổ biến và nguời ta xây dựng nhiều kỹ thuật khác dựa trên kỹ thuật này, có thể coi là các dạng khác nhau của kỹ thuật động não.
2.3.4. Kĩ thuật "Ổ bi"
Thế nào là kĩ thuật "Ổ bi"?
Kĩ thuật "Ổ bi" là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó học sinh chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để tạo điều kiện cho mỗi học sinh có thể nói chuyện với lần lượt các HS ở nhóm khác.
Cách thực hiện:
Khi thảo luận, mỗi học sinh ở vòng trong sẽ trao đổi với học sinh đối diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác;
Sau một ít phút thì học sinh vòng ngoài ngồi yên, học sinh vòng trong chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác mới.
2.3.5. Kĩ thuật "Bể cá"
Thế nào là kĩ thuật "Bể cá"?
Kĩ thuật "Bể cá" là một kĩ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm học sinh ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những học sinh khác trong lớp ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những học sinh thảo luận.
Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. Học sinh tham gia nhóm quan sát có thể ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận "bể cá", vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau.
Bảng câu hỏi dành cho những người quan sát
Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không?
Họ có nói một cách dễ hiểu không?
Họ có để những người khác nói hay không?
Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không?
Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không?
Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không?
Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không?
2.3.6. Kĩ thuật "Tia chớp"
Thế nào là kĩ thuật "Tia chớp"?
Kỹ thuật tia chớp là một kỹ thuật huy động sự tham gia của các thành viên đối với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như chớp!) ý kiến của mình về câu hỏi hoặc tình trạng vấn đề.
Quy tắc thực hiện
Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị;
Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận, ví dụ: Hiện tại tôi có hứng thú với chủ đề thảo luận không?
Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình;
Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.
2.3.7. Kĩ thuật "XYZ"
Thế nào là kĩ thuật "XYZ"?
Kĩ thuật "XYZ" là một kỹ thuật nhằm phát huy tính tích cực trong thảo luận nhóm. X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người.
Ví dụ kỹ thuật XYZ thực hiện như sau:
Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 5 phút về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh;
Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của mình, có thể lặp lại vòng khác;
Con số X-Y-Z có thể thay đổi;
Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá các ý kiến.
2.3.8. Kĩ thuật "Lược đồ tư duy"
Thế nào là kĩ thuật "Lược đồ tư duy"?
Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
Cách làm
Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Ứng dụng
Lược đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như:
Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề;
Trình bày tổng quan một chủ đề;
Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng;
Thu thập, sắp xếp các ý tưởng;
Ghi chép khi nghe bài giảng.
Ưu điểm
Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu;
Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng;
Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại;
Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
2.3.9. Kĩ thuật "Chia sẻ nhóm đôi"
Thế nào là kĩ thuật "Chia sẻ nhóm đôi"?
Chia sẻ nhóm đôi (Think, Pair, Share) là một kỹ thuật do giáo sư Frank Lyman đại học Maryland giới thiệu năm 1981. Kỹ thuật này giới thiệu hoạt động làm việc nhóm đôi, phát triển năng lực tư duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề.
Dụng cụ
Hoạt động này phát triển kỹ năng nghe và nói nên không cần thiết sử dụng các dụng cụ hỗ trợ.
Thực hiện:
Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh suy nghĩ.
Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại.
Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp.
Lưu ý
Điều quan trọng là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận được, thay vì chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân.
Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích.
Ưu điểm
Thời gian suy nghĩ cho phép học sinh phát triển câu trả lời, có thời gian suy nghĩ tốt, học sinh sẽ phát triển được những câu trả lời tốt, biết lắng nghe, tóm tắt ý của bạn cùng nhóm.
Hạn chế
Học sinh dễ dàng trao đổi những nội dung không liên quan đến bài học do giáo viên không thể bao quát hết hoạt động của cả lớp.
2.3.10. Kĩ thuật Kipling
Kĩ thuật này thường được dùng cho các trường hợp khi cần có thêm ý tưởng mới, hoặc xem xét nhiều khía cạnh của vấn đề, chọn lựa ý tưởng để phát triển.
Dụng cụ
Giấy bút cho người tham gia.
Thực hiện
Các câu hỏi được đưa ra theo thứ tự ngẫu nhiên hoặc theo một trật tự định ngầm trước, với các từ khóa: Cái gì, Ở đâu, Khi nào, Thế nào, Tại sao, Ai.
Ưu điểm
Nhanh chóng, không mất thời gian, mang tính logic cao.
Có thể áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau.
Có thể áp dụng cho cá nhân.
Hạn chế
Ít có sự phối hợp của các thành viên.
Dễ dẫn đến tình trạng "9 người 10 ý".
Dễ tạo cảm giác "Bị điều tra".
2.3.11. Kĩ thuật KWL
Thế nào là kĩ thuật KWL?
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L. (Trích từ Ogle, D.M. (1986). K-W-L: A teaching model that develops active reading of expository text. Reading Teacher, 39, 564-570).
Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau:
Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc
Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc
Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em
Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em.
Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn khổ bài đọc.
Sử dụng biểu đồ KWL như thế nào?
- Chọn bài đọc. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích
- Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng của các em.
- Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh thảo luận về những gì các em đã ghi nhận.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Khi giảng dạy môn công nghệ nói chung cũng như môn công nghệ lớp 11 nói riêng giáo viên thường gặp một số khó khăn bởi: nội dung kiến thức môn công nghệ lớp 11 mang tính tổng hợp, trừu tượng với những khái niệm, thuật ngữ mới lại vừa liên quan tới các kiến thức của các môn học khác do đó khi học phần này thường xảy ra tình trạng học sinh tiếp thu 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_tang_hung_thu_hoc_tap_mon_cong_ng.doc