SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGD&ĐT của bậc Tiểu học trường Tiểu học và Trung học cơ sở (TH&THCS) Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn
Trong quá trình giáo dục, đánh giá nhận xét học sinh được hiểu là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả dạy- học, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục.
Qua cách hiểu trên, đánh giá nhận xét học sinh trong giáo dục không chỉ ghi nhận thực trạng mà còn đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng giáo dục theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Trong công tác giáo dục, việc đánh giá được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau và với những mục đích khác nhau. Song, nội dung đánh giá xoay quanh đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của HS theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục tiểu học theo từng môn học và hoạt động giáo dục.
Từ năm học 2013-2014 trở về trước, nền giáo dục Việt Nam luôn lấy điểm số để đánh giá học sinh. Tuy nhiên, qua nhiều thời gian đúc rút kinh nghiệm chúng ta đã nhận thấy hình thức đánh giá đó khiến học sinh áp lực về điểm số, nhất là học sinh tiểu học. Kế thừa và phát huy những ưu điểm về đánh giá học sinh tiểu học đã thực hiện trước đây, đặc biệt là đổi mới đánh giá đã thực hiện trong ba năm học ở các trường tiểu học triển khai Mô hình trường học mới Việt Nam; học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã không dùng điểm số, thay vào đó học sinh nhận được những động viên, phản hồi từ giáo viên về sản phẩm học tập của các em, về các câu trả lời của các em và biện pháp để các em vượt qua các khó khăn trong học tập vì thế Thông tư 30/2014 của Bộ Giáo dục và Đào ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học ra đời.
Thông tư 30/2014/BGD-ĐT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/10/2014 và chính thức được áp dụng vào việc đánh giá học sinh các trường Tiểu học trên toàn quốc. Từ chỗ kiểm tra đánh giá thường xuyên bằng điểm số và chủ yếu hướng vào ghi nhớ kiến thức trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và kiểm tra đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư vấn, phản biện, mức độ thể hiện năng lực, phẩm chất học sinh. Đặc biệt, cách đánh giá mới, không xếp loại học tập theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu, không so sánh học sinh này với học sinh khác, đã khuyến khích được các em tự nỗ lực vươn lên, góp phần đáng kể giảm áp lực điểm số, căn bệnh thành tích trong giáo dục.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN TRƯỜNG TH&THCS PHÚ SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC THEO THÔNG TƯ 22/2016/TT-BGDĐT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ PHÚ SƠN, BỈM SƠN Người thực hiện: Phạm Thị Hường Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường TH&THCS Phú Sơn SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí BỈM SƠN NĂM 2018 MỤC LỤC NỘI DUNG Trang A. MỞ ĐẦU 1 I.Lí do chọn đề tài 1 II.Mục đích nghiên cứu 2 III.Đối tượng nghiên cứu 2 IV.Phương pháp nghiên cứu 2 B. NỘI DUNG 3 I. Cơ sở lí luận 3 II. Thực trạng giáo viên trong việc đánh gái học sinh theo Thông tư 22 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 III. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh Tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGD-ĐT 5 1. Quán triệt nhận thức cho đội ngũ CB, GV-CNV trong nhà trường về tầm quan trọng của việc đổi mới đánh giá theo TT22/2016/ BGD- ĐT. 6 2. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo việc đổi mới đánh giá HS Tiểu học theo TT22 và văn bản hợp nhất số 03/2016/ BGD-ĐT ngay từ khi có công văn của PGD & ĐT 8 3. Nâng cao kĩ năng quan sát, theo dõi, tư vấn cho học sinh Tiểu học về kiến thức, năng lực, phẩm chất. 10 4. Định hướng giáo viên dùng lời nhận xét mang tính động viên, khích lệ. Lời nhận xét phải cụ thể, dễ hiểu. 11 5. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, phát huy những ưu điểm trong quá trình dạy học theo mô hình VNEN 14 6. Nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa giáo viên với phụ huynh học sinh trong quá trình đánh giá, nhận xét học sinh. 15 IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: 17 C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 18 I. Kết luận 18 II. Kiến nghị 18 A. MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài: Trong quá trình giáo dục, đánh giá nhận xét học sinh được hiểu là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả dạy- học, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục. Qua cách hiểu trên, đánh giá nhận xét học sinh trong giáo dục không chỉ ghi nhận thực trạng mà còn đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng giáo dục theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Trong công tác giáo dục, việc đánh giá được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau và với những mục đích khác nhau. Song, nội dung đánh giá xoay quanh đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của HS theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục tiểu học theo từng môn học và hoạt động giáo dục. Từ năm học 2013-2014 trở về trước, nền giáo dục Việt Nam luôn lấy điểm số để đánh giá học sinh. Tuy nhiên, qua nhiều thời gian đúc rút kinh nghiệm chúng ta đã nhận thấy hình thức đánh giá đó khiến học sinh áp lực về điểm số, nhất là học sinh tiểu học. Kế thừa và phát huy những ưu điểm về đánh giá học sinh tiểu học đã thực hiện trước đây, đặc biệt là đổi mới đánh giá đã thực hiện trong ba năm học ở các trường tiểu học triển khai Mô hình trường học mới Việt Nam; học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã không dùng điểm số, thay vào đó học sinh nhận được những động viên, phản hồi từ giáo viên về sản phẩm học tập của các em, về các câu trả lời của các em và biện pháp để các em vượt qua các khó khăn trong học tập vì thế Thông tư 30/2014 của Bộ Giáo dục và Đào ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học ra đời. Thông tư 30/2014/BGD-ĐT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/10/2014 và chính thức được áp dụng vào việc đánh giá học sinh các trường Tiểu học trên toàn quốc. Từ chỗ kiểm tra đánh giá thường xuyên bằng điểm số và chủ yếu hướng vào ghi nhớ kiến thức trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và kiểm tra đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư vấn, phản biện, mức độ thể hiện năng lực, phẩm chất học sinh. Đặc biệt, cách đánh giá mới, không xếp loại học tập theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu, không so sánh học sinh này với học sinh khác, đã khuyến khích được các em tự nỗ lực vươn lên, góp phần đáng kể giảm áp lực điểm số, căn bệnh thành tích trong giáo dục. Là những người làm công tác giáo dục, chúng ta không thể không ghi nhận những đổi mới của Thông tư 30 trong việc đánh giá học sinh bậc tiểu học một cách toàn diện hơn và giảm bớt áp lực về ganh đua điểm số. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm thực hiện, Thông tư cũng bộc lộ một số bất cập, nhất là đã tạo ra nhiều áp lực đối với giáo viên tiểu học trong việc đánh giá, nhận xét học sinh. Thông tư 22 ra đời và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06 tháng 11 năm 2016 trên cơ sở sửa đổi bổ sung những điều bất cập của thông tư 30, bên cạnh đó sự ra đời của Thông tư 22 với hi vọng sẽ tạo ra khí thế mới cho giáo viên và học sinh tiểu học trong quá trình dạy- học. Đến nay, tất cả các trường Tiểu học trên toàn quốc đã áp dụng vào thực tiễn dạy – học được gần hai năm học, các thầy cô giáo tiểu học đón nhận Thông tư 22 một cách rất phấn khởi. Thật vậy, theo lời học giả về giáo dục K. Patricia Cross đã viết: “Công việc của người thầy ưu tú là kích thích những người có vẻ tầm thường có nỗ lực phi thường. Vấn đề hóc búa là không phải xác định những người chiến thắng; mà làm cho những người bình thường trở thành người chiến thắng.” Do vậy, những lời nhận xét của người thầy thực sự rất quan trọng với học sinh. Cùng một học sinh đó nhưng với những lời nhận xét trái ngược nhau sẽ cho ra những kết quả khác nhau sau lời nhận xét đó. Với cương vị là một nhà quản lí, để góp phần cùng với đội ngũ giáo viên nhà trường thực hiện tốt mục tiêu của Thông tư 22/2016/BGD-ĐT là quan tâm đến các môn học, hoạt động giáo dục, sự phát triển về năng lực và phẩm chất của mỗi học sinh đảm bảo theo tinh thần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nêu ở Nghị quyết 29/NQ-TW bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, đồng hành cùng với đội ngũ giáo viên trong quá trình chỉ đạo, triển khai, thực hiện đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2016/BGD-ĐT. Vì lẽ đó, bản thân tôi đã chọn nội dung “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGD&ĐT của bậc Tiểu học trường Tiểu học và Trung học cơ sở (TH&THCS) Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn” làm đề tài nghiên cứu trong năm học 2017-2018. II. Mục đích nghiên cứu Đánh giá thực trạng việc đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22 của đội ngũ giáo viên bậc Tiểu học trường TH&THCS Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa thời gian qua và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác đánh giá, nhận xét học sinh tiểu học cho đội ngũ giáo viên bậc tiểu học của trường TH&THCS Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. III. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Sáng kiến nghiên cứu hoạt động đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22 của đội ngũ giáo viên bậc tiểu học của trường TH&THCS Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh Hóa. IV. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài, bản thân đã sử dụng các phương pháp: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tham khảo tài liệu, phân tích, tổng hợp khái quát hóa các vấn đề tài liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho sáng kiến. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp điều tra bằng phiếu - Phương pháp trắc nghiệm 3. Phương pháp toán học: sử dụng thống kê để xử lí thông tin, số liệu. 4. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết, đánh giá kết quả của sáng kiến và những mặt còn hạnh chế, rút kinh nghiệm. 5. Phương pháp thực nghiệm B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 1. Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình thu thập, phân tích và xử lí các thông tin về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh theo mục tiêu môn học (hoặc hoạt động) nhằm đề xuất các giải pháp để thực hiện mục tiêu của môn học (hoặc hoạt động) đó. 2. Đánh giá thường xuyên: Tại điều 6 của Thông tư 22 ghi rõ: Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong quá trình học tập, rèn luyện về kiến thức, kĩ năng, thái độ và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh, được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn học và các hoạt động giáo dục. Đánh giá thường xuyên cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và học sinh nhằm hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học. Đánh giá thường xuyên về học tập: - Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời; - Học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn, nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập để học và làm tốt hơn; - Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo viên về các nhận xét, đánh giá học sinh bằng các hình thức phù hợp và phối hợp với giáo viên động viên, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện. Đánh giá thường xuyên về năng lực, phẩm chất: - Giáo viên căn cứ vào các biểu hiện về nhận thức, kĩ năng, thái độ của học sinh ở từng năng lực, phẩm chất để nhận xét, có biện pháp giúp đỡ kịp thời; - Học sinh được tự nhận xét và được tham gia nhận xét bạn, nhóm bạn về những biểu hiện của từng năng lực, phẩm chất để hoàn thiện bản thân; - Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi, phối hợp với giáo viên động viên, giúp đỡ học sinh rèn luyện và phát triển năng lực, phẩm chất." 3. Đánh giá định kỳ Điều 10 của Thông tư 22 nêu: - Đánh giá định kì là đánh giá kết quả giáo dục của học sinh sau một giai đoạn học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của học sinh so với chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định trong chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học và sự hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. - Đánh giá định kì về học tập + Vào giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II và cuối năm học, giáo viên căn cứ vào quá trình đánh giá thường xuyên và chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá học sinh đối với từng môn học, hoạt động giáo dục theo các mức sau: Hoàn thành tốt: thực hiện tốt các yêu cầu học tập của môn học hoặc hoạt động giáo dục; Hoàn thành: thực hiện được các yêu cầu học tập của môn học hoặc hoạt động giáo dục; Chưa hoàn thành: chưa thực hiện được một số yêu cầu học tập của môn học hoặc hoạt động giáo dục; + Vào cuối học kì I và cuối năm học, đối với các môn học: Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Ngoại ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc có bài kiểm tra định kì; Đối với lớp 4, lớp 5, có thêm bài kiểm tra định kì môn Tiếng Việt, môn Toán vào giữa học kì I và giữa học kì II; + Đề kiểm tra định kì phù hợp chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo 4 mức độ (nhận biết; hiểu, vận dụng thông thường và vận dụng nâng cao). - Đánh giá định kì về năng lực, phẩm chất Vào giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II và cuối năm học, giáo viên chủ nhiệm căn cứ vào các biểu hiện liên quan đến nhận thức, kĩ năng, thái độ trong quá trình đánh giá thường xuyên về sự hình thành và phát triển từng năng lực, phẩm chất của mỗi học sinh, tổng hợp theo 3 mức: Tốt: đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục, biểu hiện rõ và thường xuyên; Đạt: đáp ứng được yêu cầu giáo dục, biểu hiện nhưng chưa thường xuyên; Cần cố gắng: chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu giáo dục, biểu hiện chưa rõ. II. Thực trạng giáo viên trong việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Với việc sử dụng các phương pháp như: phỏng vấn trực tiếp; khảo sát qua vở viết của học sinh (6/6 lớp); quan sát giờ dạy (15 giờ/15 lượt GV), xử lí, phân tích và tổng hợp thông tin, bản thân thu được kết quả như sau: 1. Kết quả khảo sát qua vở viết, bài kiểm tra của học sinh 6 lớp: Nội dung khảo sát Rất tốt Tốt Đạt yêu cầu Cần cố gắng SL % SL % SL % SL % Nhận xét, đánh giá thường xuyên 1 16,7 1 16,7 2 33,3 2 33,3 Nhận xét, đánh giá định kỳ 1 16,7 2 33,3 2 33,3 1 16,7 2. Nhận định chung qua phân tích số liệu sau khảo sát: a) Thuận lợi: Đa số giáo viên và cán bộ quản lí cho rằng về mặt ý tưởng hình thức đánh giá này có nhiều ưu điểm và tán thành với việc thay đổi cách đánh giá sao cho đánh giá nhẹ nhàng, giảm bớt áp lực tâm lí cho cả giáo viên và học sinh nhưng vẫn khuyến khích và định hướng phát triển người học. Cô giáo Bùi Thị Dung, giáo viên chủ nhiệm lớp 2A tâm sự: Với thông tư 22, chúng tôi rất phẩn khởi bởi sẽ giảm được áp lực về làm sổ sách cho giáo viên để chúng tôi có thời gian để chuẩn bị bài giảng và chăm sóc học sinh tốt hơn. Tuy nhiên, tôi cũng có một băn khoăn, đó là trong ra đề cho khối 5 thì hiệu trưởng của các trường tiểu học tự ra, theo tôi thì nên để phòng giáo dục ra để tạo sự công bằng, khách quan và có mặt chung cho học sinh toàn thị xã. b) Khó khăn - Về giáo viên: Trên thực tế, giáo viên nhà trường đã có nhiều cố gắng thực hiện việc đánh giá bằng hình thức nhận xét song trong quá trình thực hiện chỉ có 66,7% giáo viên thực hiện đầy đủ và đúng yêu cầu đánh giá bằng nhận xét, điều đó cho thấy giáo viên vẫn còn “tiết kiệm” trong việc đánh giá, nhận xét học sinh bằng lời nói, đặc biệt là các kĩ thuật thu thập chứng cứ và phần diễn đạt bằng lời khi nhận xét bằng chữ viết vào vở học sinh vì vậy hiệu quả đánh giá bằng nhận xét chưa cao. Có lúc, có tiết dạy của giáo viên việc đánh giá, nhận xét học sinh vẫn còn ít, lời nhận xét bằng chữ viết của giáo viên vẫn chưa giúp phụ huynh phân định được mức độ hoàn thành bài của con em mình. Bên cạnh đó, một số ít giáo viên còn e dè trong lời nhận xét dành cho học sinh chậm, yếu. Trên thực tế, để nhận xét bằng chữ viết cho học sinh đòi giáo viên phải suy nghĩ ghi "lời phê như thế nào".... chính việc làm này khiến nhiều giáo viên không kịp ghi vào vở học sinh, mất nhiều thời gian trong một ngày. Một nhóm giáo viên hạn chế về chữ viết cho rằng việc ghi "lời phê đòi hỏi khi ghi chữ cần chuẩn mực do đó họ không thể đang dạy mà chấm bài nên phải mang về nhà chấm .... Giáo viên nhận xét bài kiểm tra thường xuyên chưa ghi cụ thể những ưu điểm, hạn chế bài làm của học sinh, vẫn còn tồn tại nhiều lời phê, lời nhận xét của giáo viên chưa khuyến khích động viên học sinh cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Ví dụ: Khi nhận xét trong vở chính tả của học sinh, một số giáo viên thường ghi: “Em viết chưa đúng quy trình”. Học sinh khi đọc lời nhận xét sẽ khó hình dung được không biết mình sai cụ thể lỗi gì, phải khắc phục thế nào. Có thể nói, việc đánh giá, nhận xét bằng lời nói trực tiếp được đa số giáo viên trong trường thực hiện rất tốt. Phần đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên bằng chữ viết vẫn có một số giáo viên làm chưa thường xuyên hoặc lời nhận xét chưa thể hiện được hết những vấn đề học sinh cần khắc phục, những điểm các em cần phát huy. - Đối với học sinh: Học sinh còn hạn chế trong hiểu nghĩa từ nên việc nhận xét vở, phiếu học tập của học sinh với một số từ chuyên môn sẽ khiến các em khó hiểu hơn là điểm số. Không chấm điểm thường xuyên thì có một số học sinh sẽ ít có động lực để phấn đấu trong học tập. - Đối với phụ huynh học sinh. Vẫn còn có phụ huynh thích chấm điểm thường xuyên hơn nhận xét; chưa thật sự ủng hộ và phối hợp với giáo viên để thực hiện tốt thông tư. Số phụ huynh đi làm ăn xa, việc nhận xét vào vở để bố mẹ xem rất khó thực hiện được. III. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGD&ĐT 1. Tiếp tục quán triệt nhận thức cho đội ngũ CB, GV-CNV trong nhà trường về tầm quan trọng của việc đổi mới đánh giá theo TT22/2016/ BGD- ĐT. Biện pháp này nhằm làm cho mỗi cán bộ quản lý, giáo viên bậc Tiểu học và các đồng chí giáo viên đặc thù bậc THCS tham gia giảng dạy các môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Thủ công- Kỹ thuật ở bậc Tiểu học nhận thức đầy đủ về sự cần thiết và tầm quan trọng của Thông tư 22 đối với hoạt động dạy- học trong sự nghiệp giáo dục bậc Tiểu học. Để thực hiện được mục tiêu nói trên, nhà trường tổ chức tập huấn chuyên đề bậc tiểu học; Hội thảo về Thông tư 22/ BGD&ĐT ngay từ đầu năm học. Trao đổi, thảo luận, chia sẻ để giáo viên ghi nhớ được các điểm mới của Thông tư 22 so với Thông tư 30/2014 trước đó. Nhận thấy được ưu điểm của Thông tư 22 trong quá trình kiểm tra, đánh giá, nhận xét, xếp loại học sinh. Với cương vị là người phụ trách chuyên môn, cùng với Ban giám hiệu nhà trường, tôi đã giúp đội ngũ cán bộ, giáo viên bậc tiểu học và các đồng chí giáo viên bậc THCS dạy các môn đặc thù ở bậc Tiểu học hiểu rõ hơn về ưu điểm và tầm quan trọng của việc đổi mới đánh giá theo Thông tư 22. Từ đó giáo viên đã nhận ra: -Thông tư 22 vẫn giữ nguyên tinh thần nhân văn, thể hiện: Việc giữ nguyên nội dung Điều 1, Điều 2; Điều 3 thay từ “đánh giá” bằng từ “nhận xét”, Điều 4 sửa đổi tên điều và sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 3 Điều thể hiện rõ hơn tính nhân văn đó là đánh giá vì sự tiến bộ, vì sự phát triển của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác”. - Giáo viên thuận lợi hơn khi đánh giá học sinh: Trong quá trình đánh giá thường xuyên về học tập, việc đánh giá theo 3 mức: Hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành, xét về mặt tâm lý, 3 mức này nhìn nhận cụ thể hơn kết quả phấn đấu của học sinh. Đồng thời cung cấp cho giáo viên những thông tin phản hồi rất hữu ích liên quan đến quá trình học tập của học sinh, những lĩnh vực có sự tiến bộ, lĩnh vực học tập nào còn khó khăn; giúp học sinh nhận ra mình thiếu hụt những gì so với chuẩn kiến thức, kỹ năng để cả giáo viên và học sinh cùng điều chỉnh hoạt động dạy và học. Đánh giá sự hình thành và lực, phẩm chất của học sinh: Thông tư 22 viết gọn lại thành 2 nhóm: a) Năng lực: tự phục vụ, tự quản; hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề; b) Phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; đoàn kết, yêu thương.” Điều này giúp giáo viên dễ dàng hơn trong đánh giá, đồng thời tránh được những hiểu lầm, sự suy diễn, ấp đặt lối suy nghĩ theo kiểu người lớn. Thông tư 22 cũng quy định thông qua quá trình đánh giá thường xuyên đến giữa và cuối mỗi học kì, lượng hóa mỗi năng lực, phẩm chất thành ba mức: Tốt, Đạt, Cần cố gắng (trước đây theo Thông tư 30 chỉ có 2 mức Đạt và Chưa đạt). Việc lượng hóa này, cho phép giáo viên, cha mẹ học sinh xác định được mức độ hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh sau một giai đoạn học tập, rèn luyện. Từ đó giáo viên có những biện pháp kịp thời giúp đỡ học sinh khắc phục hạn chế, phát huy những điểm tốt để các em ngày một tiến bộ hơn. Bên cạnh đó, học sinh có động lực phấn đấu, cha mẹ học sinh dễ dàng nhận ra con mình ở mức nào. Thật vậy, động cơ học tập bên trong là bản thân tri thức và phương pháp lĩnh hội tri thức, những mong muốn, khát khao chiếm lĩnh tri thức có vai trò quyết định đến kết quả học tập của học sinh. Tuy vậy không thể không kể đến động cơ bên ngoài. Nhất là ở tiểu học, học tốt để đáp ứng mong đợi của cha mẹ, học tốt để được cô khen, để được bạn bè tôn trọng, yêu mến là suy nghĩ, là động lực để các em học tốt hơn. Việc đánh giá học sinh theo 3 mức; lớp 4, 5 có thêm bài kiểm tra giữa kì; việc khuyến khích học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn, nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập; quy định về khen thưởng khá rõ ràng giúp học sinh tự nhận ra mình có điểm mạnh gì, thiếu hụt những gì về kiến thức kĩ năng để cố gắng phấn đấu. Bên cạnh đó, thái độ ân cần niềm nở, vui mừng khi học sinh hoàn thành nhiệm vụ, những lời khen của cô khi học sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập rèn luyện là động lực để các em ngày càng cố gắng hơn. Theo đó, đánh giá học sinh xếp làm 3 mức hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành, cũng như việc khen thưởng theo Thông tư 22 cũng giúp cha mẹ học sinh nhận rõ hơn con mình đang ở mức nào. Bởi tâm lý chung của cha mẹ học sinh vẫn còn hết sức quan tâm đến thành quả học tập, rèn luyện của các con sau một năm học. Nhiều bậc làm cha mẹ tỏ ra băn khoăn, lo lắng và
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_cong_tac_danh_g.doc