SKKN Những biện pháp khắc phục sai lầm mà học sinh lớp 4, lớp 5 thường mắc phải khi học phần từ ghép, từ láy

SKKN Những biện pháp khắc phục sai lầm mà học sinh lớp 4, lớp 5 thường mắc phải khi học phần từ ghép, từ láy

Tiếng Việt là tiếng phổ thông, dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng sống trên đất nước Việt Nam. Bởi vậy, tiếng Việt có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người dân Việt Nam. Những thay đổi về đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa giáo dục, thành tựu nghiến cứu khoa học đã dẫn tới yêu cầu mới trong dạy tiếng Việt ở nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng.

Chương trình Tiểu học chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ hình thành và phát triển 4 kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết (mục tiêu hình thành và phát triển kĩ năng được đưa lên hàng đầu) nhằm tạo ra ở học sinh năng lực dùng tiếng Việt để học tập và giao tiếp. Giúp trẻ sử dụng tốt tiếng Việt trong học tập và giao tiếp tức là làm cho việc dạy tiếng Việt hòa nhập với xu hướng chung của việc dạy tiếng trên thế giới, hướng vào việc chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, đồng thời góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong môn tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu có vai trò tích cực trong việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh. Đối với lớp 4, 5 phân môn này có tầm quan trọng rất lớn vì nó giúp học sinh:

- Mở rộng, hệ thống hóa vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu.

- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.

- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp, yêu thích học tiếng Việt và góp phần bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Đối với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh cuối cấp bậc tiểu học, để giúp các em có vốn từ ngữ phong phú, dùng từ chính xác trong nói, viết và giao tiếp là vấn đề hết sức quan trọng.

Trong nhiều năm liền, tôi được nhà trường phân công giảng dạy ở các lớp cuối cấp, tôi nhận thấy học sinh cuối cấp bậc Tiểu học phân biệt, nhận diện từ ghép, từ láy còn chưa tốt nên tôi chọn đề tài “ Những biện pháp khắc phục sai lầm mà học sinh lớp 4, lớp 5 thường mắc phải khi học phần từ ghép, từ láy” nhằm giúp các em phân biệt được từ ghép, từ láy và giúp các em hiểu sâu hơn về từ ghép, từ láy, biết dùng từ chính xác hơn trong nói, viết và giao tiếp, góp phần làm phong phú hơn vốn từ ngữ của các em, giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.

 

doc 14 trang thuychi01 9961
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Những biện pháp khắc phục sai lầm mà học sinh lớp 4, lớp 5 thường mắc phải khi học phần từ ghép, từ láy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là tiếng phổ thông, dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng sống trên đất nước Việt Nam. Bởi vậy, tiếng Việt có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người dân Việt Nam. Những thay đổi về đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa giáo dục, thành tựu nghiến cứu khoa học đã dẫn tới yêu cầu mới trong dạy tiếng Việt ở nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng.
Chương trình Tiểu học chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ hình thành và phát triển 4 kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết (mục tiêu hình thành và phát triển kĩ năng được đưa lên hàng đầu) nhằm tạo ra ở học sinh năng lực dùng tiếng Việt để học tập và giao tiếp. Giúp trẻ sử dụng tốt tiếng Việt trong học tập và giao tiếp tức là làm cho việc dạy tiếng Việt hòa nhập với xu hướng chung của việc dạy tiếng trên thế giới, hướng vào việc chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, đồng thời góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong môn tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu có vai trò tích cực trong việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh. Đối với lớp 4, 5 phân môn này có tầm quan trọng rất lớn vì nó giúp học sinh:
- Mở rộng, hệ thống hóa vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp, yêu thích học tiếng Việt và góp phần bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Đối với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh cuối cấp bậc tiểu học, để giúp các em có vốn từ ngữ phong phú, dùng từ chính xác trong nói, viết và giao tiếp là vấn đề hết sức quan trọng.
Trong nhiều năm liền, tôi được nhà trường phân công giảng dạy ở các lớp cuối cấp, tôi nhận thấy học sinh cuối cấp bậc Tiểu học phân biệt, nhận diện từ ghép, từ láy còn chưa tốt nên tôi chọn đề tài “ Những biện pháp khắc phục sai lầm mà học sinh lớp 4, lớp 5 thường mắc phải khi học phần từ ghép, từ láy” nhằm giúp các em phân biệt được từ ghép, từ láy và giúp các em hiểu sâu hơn về từ ghép, từ láy, biết dùng từ chính xác hơn trong nói, viết và giao tiếp, góp phần làm phong phú hơn vốn từ ngữ của các em, giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu những sai lầm mà học sinh lớp 4, lớp 5 thường mắc phải về việc phân biệt, nhận diện từ ghép, từ láy.
- Đề xuất những giải pháp giúp học sinh nắm chắc khái niệm từ ghép, từ láy; phân biệt tốt từ ghép và từ láy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Chương trình luyện từ và câu lớp 4, lớp 5.
- Kiến thức về từ ghép, từ láy lớp 4, lớp 5.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh, tổng hợp.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong chương trình môn tiếng Việt ở Tiểu học, từ ghép, từ láy được dạy trong phân môn Luyện từ và câu, các phân môn khác thuộc môn tiếng Việt và trong giờ học của các môn học khác Như vậy, nội dung dạy về từ ghép, từ láy trong chương trình môn tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở tiểu học, chiếm một tỉ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy từ ghép, từ láy ở bậc tiểu học. Vốn từ là một trong những bộ phận cấu thành của ngôn ngữ, cho nên muốn dạy cho học sinh nắm tiếng mẹ đẻ, không thể không coi trọng việc dạy vốn từ ghép, từ láy cho học sinh. Trong giao tiếp thông thường, cả người phát (nói, viết) và người nhận (nghe, đọc) đều cần nắm được từ ghép, từ láy, hiểu từ ghép, từ láy và sử dụng từ ghép, từ láy một cách chính xác thì việc giao tiếp mới diễn ra suôn sẻ, đạt được hiệu quả. Nhất là đối với học sinh ở độ tuổi tiểu học, khi mà vốn tiếng Việt nói chung, vốn từ nói riêng ở các em còn hạn chế, cần phải được bổ sung, phát triển để đáp ứng các nhu cầu học tập, giao tiếp. Đặc biệt là từ láy trong tiếng Việt còn góp phần rất lớn trong việc gợi tả sắc thái, biểu cảm, làm bộc lộ hết cái hay, cái đẹp của ngôn từ nói chung và văn bản văn chương nói riêng. Việc nắm vững từ ghép, từ láy rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học. Nó giúp cho các em thêm yêu quý tiếng Việt, viết được những câu văn hay sinh động, gợi tả, gợi cảm, miêu tả được cảnh vật một cách sinh động. Vì vậy, việc dạy và mở rộng vốn từ ghép, từ láy cho học sinh càng được coi trọng, không thể dạy lướt qua.
Trước tình hình học sinh đã và đang học lớp 4, 5 khi học và ôn đến phần từ ghép, từ láy mà bản chất từ ghép, từ láy các em không hiểu, thậm chí còn không phân biệt được các từ ghép, từ láy đơn giản và thông thường nên nó là mối quan tâm và lo ngại của giáo viên khi dạy môn tiếng Việt. Từ thực tế kĩ năng nhận biết từ ghép, từ láy của học sinh còn chưa tốt, chưa đạt yêu cầu cơ bản của học sinh cuối cấp ở bậc Tiểu học. Do vậy, tôi nhận thấy yêu cầu cần thiết là hướng dẫn cho học sinh “Những biện pháp khắc phục sai lầm mà học sinh lớp 4, 5 thường mắc phải khi học phần từ ghép, từ láy” nhằm giúp học sinh hiểu sâu hơn về từ ghép, từ láy. Các em đạt yêu cầu về nắm bắt tính chất cơ bản của từ ghép, từ láy, không còn mắc lỗi phổ biến và có khả năng nhận biết và vận dụng tốt từ ghép, từ láy vào phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn và các môn học khác.
Mặt khác, đề tài này cũng giúp học sinh hiểu được bản chất của từ ghép, từ láy trên cơ sở sách giáo khoa tiếng Việt hiện hành (Lớp 4)
Những biện pháp này tôi đã thực hiện trong các năm học trước và đang được áp dụng ở năm học này, nhằm thực hiện cho đối tượng học sinh lớp 4 mà tôi trực tiếp giảng dạy, nhất là đối với học sinh chưa hoàn thành môn tiếng Việt.
2.2. Thực trạng
Do đặc diểm nội dung của phân môn Luyện từ và câu không được hấp dẫn như phân môn Tập đọc hay Kể chuyện nên học sinh không hứng thú khi học phân môn này. Bên cạnh đó, vốn từ ngữ của các em còn hạn chế, việc học và phân biệt từ ghép, từ láy đối với các em còn gặp nhiều khó khăn do các em tiếp thu còn hạn chế vì thời lượng quy định cho chương trình về phần này trong sách giáo khoa (SGK) còn ít. Do vậy, giáo viên chỉ dạy theo sự ràng buộc của phân phối chương trình, thường dạy kiến thức cơ bản trong SGK là chính, thời gian dành cho luyện tập thực hành còn quá ít. Từ đó, học sinh ít phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi, sáng tạo trong khi học phần từ ghép, từ láy, không hình thành được kỹ năng khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Năm học 2017 – 2018, tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 4B, qua thực tế giảng dạy ở các năm học trước và một số tuần đầu của năm học này, sau khi học phần từ ghép, từ láy, qua sự kiểm tra của giáo viên và đặc biệt thông qua kết quả thi định kỳ học kỳ I, tôi nhận thấy học sinh còn hạn chế về phần từ ghép, từ láy và tôi đã thống kê các sai lầm của học sinh để tìm nguyên nhân và có biện pháp khắc phục để các em hiểu và nắm vững hơn về từ ghép, từ láy giúp các em trau dồi vốn từ ngữ phong phú hơn, hiểu và sử dụng từ ngữ chính xác hơn trong nói, viết và làm văn. Cụ thể, qua thống kê, tôi nhận thấy thực trạng những sai lầm của học sinh nhiều nhất là:
Chưa nắm vững:
- Khái niệm về từ ghép, từ láy.
- Phân biệt được từ ghép, từ láy.
- Nghĩa của từ ghép, từ láy.
- Nhận biết và sử dụng từ ghép, từ láy.
Cuối tháng 9, học sinh lớp 4B làm bài khảo sát về môn tiếng Việt, kết quả như sau:
Tổng số học sinh
Học sinh HTT
Học sinh HT
Học sinh CHT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
38
10
26,3
25
65,8
3
7,9
2.3. Những giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Từ thực trạng của học sinh, sau khi tìm ra nguyên nhân, tôi thấy cần giải quyết những vấn đề sau:
- Giúp học sinh hiểu đầy đủ khái niệm từ ghép, từ láy.
- Giúp học sinh phân biệt giữa từ ghép và từ láy.
- Giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ ghép, từ láy.
- Giúp học sinh có kĩ năng nhận biết và sử dụng từ ghép, từ láy.
2.3.1. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm từ ghép
Khái niệm: (SGK Tiếng việt lớp 4) nêu khái niệm về từ ghép như sau:
Từ ghép là từ gồm 2 tiếng có nghĩa trở lên ghép lại với nhau để tạo thành từ mới mang ý nghĩa chung.
Đặc điểm : là loại từ có cấu trúc phức tạp bởi vì xét về mặt số lượng các yếu tố thì từ ghép trùng với cụm từ tự do .
Ví dụ: máy bay từ ghép
Chim bay cụm từ tự do
- Khi nhận diện đâu là từ ghép, đâu là cụm từ tự do cần phải dựa vào 2 tiêu chí sau :
+ Nghĩa của từ ghép mang tính khái quát.
+ Về hình thức từ ghép mang tính chất chỉnh thể các yếu tố trong từ ghép không thể tách ra hoặc không thể chen thêm một yếu tố khác vào giữa 2 yếu tố trong từ ghép còn cụm từ tự do thì các yêu tố trong cụm từ tự do kết hợp với nhau một cách lỏng lẻo, có thể chèn thêm một yếu tố khác vào giữa 2 yếu tố trong cụm từ tự do.
Ví dụ: chim bay chim đang bay
- Muốn nhận diện từ ghép nên đặt nó vào ngữ cảnh, đặt nó vào câu.
- Các yếu tố trong từ ghép kết hợp với nhau bao giờ cũng theo tiêu chí ngữ nghĩa, bởi vậy qui tắc nổi trội nhất trong từ ghép tiếng Việt là qui tắc ngữ nghĩa, các yếu tố cấu tạo nên từ ghép đều có ý nghĩa từ vựng. Quan hệ giữa các yếu tố cấu tạo nên từ đó là quan hệ về nghĩa.
2.3.2. Giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ ghép
Ở tiểu học các em được học về hai loại từ ghép:
Loại 1: Từ ghép có nghĩa tổng hợp: là hai yếu tố trong từ ghép ngang hàng nhau, không có yếu tố nào chính không có yếu tố nào phụ ghép lại với nhau để tạo thành từ mang ý nghĩa chung.
Ví dụ: Thuyền + bè = thuyền bè
Gà + vịt = gà vịt
Sông + núi = sông núi
Yêu + thương = yêu thương
- Có thể phân từ ghép tổng hợp thành 3 tiểu loại:
Ví dụ: Thuyền bè; gà vịt; hổ báo; sông núi; mang ý nghĩa khái quát.
Ví dụ: Đi đứng; ăn nói; ăn mặc; học hành; loại này có ý nghĩa thường thiên vào một yếu tố nào đó trong từ mang ý nghĩa trừu tượng.
Ví dụ: Giá cả, chợ búa, phố xá, chùa chiền, cây cối, đền đài, đất đai, loại này có một yếu tố đứng sau bị mờ nghĩa cho nên xét về mặt hình thức nó giống từ ghép phân nghĩa nhưng xét về mặt bản chất nghĩa thì nó vẫn mang nghĩa chung, nghĩa khái quát.
Vì vậy, giáo viên phải nắm vững 3 tiểu loại của từ ghép tổng hợp để giúp học sinh làm các bài tập tìm từ ghép và phân loại từ ghép.
Loại 2: Từ ghép có nghĩa phân loại: là quan hệ giữa một yếu tố mang nghĩa khái quát với một yếu tố mang nghĩa hạn định tạo thành nghĩa cá thể, cụ thể của từ.
Ví dụ: Chim sáo, chim sâu, xe đạp, xe máy, xe xích lô,
- Từ ghép có nghĩa phân loại lại gồm 3 tiểu loại:
+ Loại 1: Giữa các yếu tố cấu tạo từ dường như không có ý nghĩa chung.
Ví dụ: Xe lửa, xe đạp, xe ngựa, xe điện,
+ Loại 2: Nghĩa của yếu tố thứ 2 ít nhiều mang nghĩa của yếu tố thứ nhất.
Ví dụ: Cá giếc, cá rô, cá chép, cá mè,
+ Loại 3: Loại mà yếu tố thứ 2 thường mất nghĩa.
Ví dụ: Trắng tinh, thẳng tắp, xanh rì,
Ngoài 2 loại từ ghép chính đã nói trên (từ ghép có nghĩa tổng hợp và từ ghép có nghĩa phân loại) được giới thiệu ở tiểu học thì trong thực tế khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập về xác định từ ghép, nhận diện từ ghép ta còn gặp một số từ ghép:
Ví dụ: - Cà phê, pho mát, bù nhìn,
- Châu chấu, chẫu chàng, cào cào, đu đủ, chuồn chuồn,
Các từ ghép trên: cả 2 yếu tố kết hợp với nhau một cách ngẫu nhiên, cả hai yếu tố trong từ đều không có nghĩa thực, mà chỉ có ý nghĩa từ vựng của từ khi các yếu tố kết hợp với nhau.
Ở trường hợp phân môn Luyện từ và câu, từ ghép và từ láy được giới thiệu rất sơ giản, thời lượng rất ít, nhất là lớp 4, từ ghép và từ láy chỉ được giới thiệu trong hai tiết học. Bởi vậy, học sinh hiểu về từ ghép và từ láy còn rất lơ mơ nên gặp rất nhiều khó khăn khi làm các bài tập tìm từ ghép, từ láy, nhận diện từ ghép, từ láy và sử dụng từ ghép, từ láy trong nói, viết, còn rất nhiều hạn chế đặc biệt trong công tác bồi dưỡng mũi nhọn. Nếu giáo viên chỉ bó hẹp nghiên cứu tài liệu trong SGK mà không tìm tòi, nghiên cứu thêm các tài liệu khác có liên quan thì việc dạy và hướng dẫn học sinh phân biệt và nắm vững từ ghép, từ láy cũng gặp nhiều khó khăn.
Ví dụ: Cho một số từ sau:
Thật thà, vui mừng, chăm chỉ, bạn học, đẹp đẽ, gắn bó, bạn đường, ngoan ngoãn, giúp đỡ, bạn đọc, khó khăn, hư hỏng, bạn bè.
- Hãy xếp các từ trên vào 3 nhóm:
Từ ghép có nghĩa tổng hợp, từ ghép có nghĩa phân loại, từ láy
- Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xếp như sau:
Từ ghép tổng hợp
Từ ghép phân loại
Từ láy
Vui mừng
Gắn bó
Giúp đỡ
Hư hỏng
Bạn bè
Bạn học
Bạn đường
Bạn đọc
Thật thà
Chăm chỉ
Đẹp đẽ
Ngoan ngoãn
Khó khăn
Đối với loại bài tập này yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến thức về 
Từ ghép, từ láy, phân biệt được từ ghép, từ láy thì học sinh mới có thể lựa chọn và xếp chính xác các từ trên vào 3 nhóm như đã nêu trên.
Ví dụ: Từ: Hư hỏng, bạn bè nếu không nắm vững kiến thức về Từ ghép, từ láy học sinh dễ nhầm và cho đó là từ láy.
2.3.3. Giúp học sinh có kỹ năng nhận biết và phân loại từ ghép
Một số dạng bài tập về từ ghép mà các em thường gặp
* Loại bài tập về tạo từ ghép, từ láy từ các tiếng đã cho 
Dạng 1: Cho các tiếng, tạo ra các từ ghép, từ láy từ các tiếng đã cho. 
Ví dụ: Tạo hai từ ghép có nghĩa phân loại, hai từ ghép có nghĩa tổng hợp, một từ láy từ mỗi tiếng sau: Nhỏ, sáng, lạnh.
Đối với dạng bài tập này khi các em đã nắm vững khái niệm về từ ghép và hiểu về các nghĩa của từ ghép thì các em dễ dàng tạo ra được các từ ghép, từ láy từ các tiếng đã cho như sau:
Tiếng
Từ ghép có nghĩa phân loại
Từ ghép có nghĩa tổng hợp
Từ láy
Nhỏ
Nhỏ xíu
Nhỏ bé
Nhỏ nhắn
Nhỏ tí
Nhỏ xinh
Sáng
Sáng choang
Sáng trong
Sáng sủa
Sáng rực
Sáng tươi
Lạnh
Lạnh ngắt
Lạnh giá
Lạnh lẽo
Lạnh tanh
Lạnh buốt
Dạng 2: Từ những tiếng cho trước hãy tạo thành các từ ghép bằng cách ghép các tiếng đã cho lại với nhau.
Ví dụ: Hãy tạo thành 10 từ ghép bằng cách ghép các tiếng sau lại với nhau:
Yêu, thương, quý, mến, kính,..
Với dạng bài tập này, học sinh dễ dàng tìm được các từ ghép từ các tiếng đã cho như: (yêu thương, yêu quý, yêu mến, thương yêu, thương mến, quý mến, mến yêu, mến thương, kính mến, kính yêu v..v.)
* Loại bài tập về nhận diện từ ghép, từ láy
Ví dụ: Cho các từ sau: mải miết, xa xôi, xa lạ, phẳng lặng, phẳng phiu, mong ngóng, mong mỏi, mơ màng, mơ mộng.
Hãy xếp các từ trên thành hai nhóm: từ ghép, từ láy.
Đối với dạng bài tập này tất cả các từ đã cho đều có một bộ phận âm thanh của tiếng được lặp lại nếu không nắm vững khái niệm và hiểu về nghĩa của từ ghép, từ láy học sinh sẽ cho rằng tất cả các từ trên đều là từ láy. Vì vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh chọn ra những từ mà cả hai tiếng đều mang nghĩa thì đó là từ ghép.
Các từ ghép là: Xa lạ; phẳng lặng; mong ngóng; mơ mộng.
Các từ láy là: Mải miết; xa xôi; phẳng phiu; mong mỏi; mơ màng.
* Loại bài tập về phân loại từ ghép
Ví dụ: Phân các từ ghép sau đây thành 2 loại: Từ ghép có nghĩa phân loại, từ ghép có nghĩa tổng hợp:
- Học tập, học đòi, học hành, học gạo, học lỏm, học hỏi, học vẹt, anh cả,, anh em, anh trai, anh rể, bạn học, bạn đọc, bạn đường.
- Bằng những kiến thức đã học, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kỹ các từ ghép đã cho, chọn ra những từ ghép gồm hai tiếng mà trong đó mỗi tiếng đều có nghĩa ngang hàng nhau, ghép lại với nhau để tạo thành một nghĩa chung, nghĩa khái quát. Các từ đó là từ ghép có nghĩa tổng hợp. Từ đó, học sinh có thể tìm được.
Các từ ghép có nghĩa tổng hợp là: Học tập; học hành; học hỏi; anh em.
Các từ còn lại là từ ghép có nghĩa phân loại.
* Loại bài tập về điền tiếng thích hợp vào chỗ trống để có các từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Điền tiếng thích hợp vào chỗ trống để có
a) Các từ ghép 
a) Các từ láy
Mềm 
Mềm 
Xanh.. 
Xanh.. 
Khỏe. 
Khỏe. 
Lạnh. 
Lạnh. 
Vui
Vui
Đối với dạng bài tập này học sinh dễ dàng tìm và điền được các tiếng còn thiếu vào chỗ trống để tạo thành từ ghép, từ láy.
Các em sẽ điền như sau:
a) Các từ ghép
b) Các từ láy
Mềm mỏng
Mềm mại
Xanh trong 
Xanh xao
Khỏe mạnh
Khỏe khoắn
Lạnh buốt
Lạnh lẽo
Vui tươi
Vui vẻ
2.3.4. Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm từ láy
Khi dạy phần khái niệm từ láy, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ:
Ngoài những từ láy có tiếng gốc rõ nghĩa như:
Xa xa xa; đẹp đèm đẹp ;còn có những từ láy trong đó không xác định được tiếng gốc như: lững thững; thướt tha; nhí nhảnh; dí dỏm.
Có một số từ trong đó một trong hai tiếng đã mất nghĩa.
Ví dụ: Chùa chiền; thịt thà; gậy gộc; máy móc;
Có một số từ mà các tiếng trong từ được biểu hiện trên chữ viết không có phụ âm đầu.
Ví dụ: 
+ Ồn ã; ấm áp; im ắng; inh ỏi; óng ả;(những từ này xác định được tiếng gốc)
+ Ấp úng; oái oăm; óc ách; õng ẹo; ỏn ẻn;(những từ này không xác định được tiếng gốc)
Các từ láy trên là từ láy âm vì chúng đều vắng khuyết phụ âm đầu được láy lại, lặp lại.
Ngoài ra, giáo viên còn giúp cho học sinh hiểu: Không để hình thức chữ viết của từ “đánh lừa”.
Ví dụ: Cập kênh; cồng kềnh; cũ kỹ; kém cỏi; quanh co; là những từ láy âm. (phụ âm đầu “cờ” được ghi bằng các con chữ khác nhau: c, k, q)
2.3.5. Giúp học sinh phân biệt từ ghép với từ láy
Sách giáo khoa Tiếng việt 4 nêu khái niệm về từ láy: “Từ gồm hai hoặc ba, bốn tiếng trong đó có một bộ phận của tiếng được lặp lại hoặc cả tiếng được lặp lại, gọi là từ láy”.
Định nghĩa trên chủ yếu các dấu hiệu hình thức của từ láy. Cho nên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ thêm các trường hợp sau:
Có một số từ trong đó có một bộ phận được lặp lại nhưng không phải là từ láy mà là từ ghép.
Ví dụ: Mặt mũi; tươi tốt; đi đứng; nhỏ nhẹ; buôn bán;
Các tiếng trong các từ trên đều có nghĩa. Quan hệ giữa hai tiếng trong từng từ chủ yếu là quan hệ về nghĩa (nghĩa tổng hợp). Các từ ghép này có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ láy.
Ngoài ra, có một số từ trong đó có một bộ phận âm thanh của tiếng được lặp lại nhưng không phải là từ láy mà là từ ghép gốc Hán.
Ví dụ: Bình minh; hảo hạng; khắc khổ; ban bố; căn cơ; hoan hỉ; chuyên chính;
Các từ trên là từ ghép gốc Hán có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ láy. Các tiếng trong các từ này đều có nghĩa.
Ví dụ: Ban bố: + Ban: ban hành
+ Bố: công bố.
Các từ trên, quan hệ giữa hai tiếng trong từng từ cũng là quan hệ về nghĩa (nghĩa tổng hợp).
Có những từ được kết hợp hai từ đơn. Hai từ đơn ngẫu nhiên có điểm giống nhau về hình thức âm thanh (giống nhau về phụ âm đầu, vần).
Ví dụ: Sáng sớm; bế bé; lên lớp; học đọc;
Thông qua những ví dụ cụ thể để học sinh hiểu và phân biệt được các từ ghép, từ láy thông qua các nhóm từ cho sẵn thì giáo viên nâng lên mức cao hơn là cho học sinh phân biệt từ ghép, từ láy trong một câu văn, đoạn văn, đoạn thơ, câu thơ.
Cụ thể thông qua loại bài tập sau:
Bài tập 1: Tìm từ ghép, từ láy trong đoạn văn sau:
“Mùa xuân xôn xao, phơi phới. Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại rơi mà như nhảy múa.”
Đối với loại bài tập này thì học sinh dễ dàng có thể phân biệt đúng được các từ ghép, từ láy không có thể sai (nếu học sinh có kỹ năng tách từ trong câu văn tốt) vì trong đoạn văn này không có từ nào đặc biệt giống nhau một cách ngẫu nhiên về mặt âm và vần để “đánh lừa”.
Bài tập 2: Tìm từ ghép, từ láy trong đoạn văn sau:
“Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”.
Với loại bài tập này học sinh rất dễ nhầm các từ: dẻo dai, giản dị, chí khí là từ láy vì các từ này có bộ phận giống nhau. Chính vì vậy, giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh cách xác định, phân biệt và hiểu được một cách chính xác các tiếng trong một từ ghép (đó là: Khi tách riêng từng tiếng trong từ thì tiếng nào cũng xác định được nghĩa của nó cho nên các tiếng này trong từ có quan hệ với nhau về mặt nghĩa do vậy các từ đó là từ ghép)
Nói tóm lại, khi dạy đến phần này, giáo viên cần nhấn mạnh với học sinh: Khi gặp từ có hình thức âm thanh giống nhau mà không xác định được đó là từ ghép hay từ láy thì các em xác định nghĩa của từng tiếng trong từ. Nếu cả hai tiếng trong từ đều có nghĩa thì đó là từ ghép, còn trong từ một tiếng có nghĩa và một tiếng không có nghĩa hoặc cả hai tiếng đều không có nghĩa thì đó là từ láy.
2.3.6. Giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ láy
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 (chương trình cũ) giới thiệu cho học sinh hai dạng nghĩa cơ bản: “Từ láy có nghĩa mạnh hơn so với nghĩa từ gốc” và “Từ láy có nghĩa giảm nhẹ so với nghĩa gốc”. Chương trình hiện hành bây giờ, học sinh không được học nữa nhưng 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nhung_bien_phap_khac_phuc_sai_lam_ma_hoc_sinh_lop_4_lop.doc