SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường THCS bằng bản đồ tư duy

SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường THCS bằng bản đồ tư duy

“Văn học là nhân học”.Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ Văn .

 Có lẽ cũng bởi vì thế, trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học môn Ngữ Văn nói riêng luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, được các Thầy cô giáo nhanh chóng ứng dụng có sáng tạo kịp thời. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy học nói chung, dạy học Ngữ Văn nói riêng là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.

 

doc 19 trang thuychi01 12841
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường THCS bằng bản đồ tư duy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
“Văn học là nhân học”.Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ Văn .
 Có lẽ cũng bởi vì thế, trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học môn Ngữ Văn nói riêng luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, được các Thầy cô giáo nhanh chóng ứng dụng có sáng tạo kịp thời. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy học nói chung, dạy học Ngữ Văn nói riêng là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.
 Như chúng ta đều đã biết, lâu nay ngành giáo dục nói chung và bộ môn Ngữ văn nói riêng đang phải đối mặt với với nạn học vẹt- học sinh chỉ học thuộc mà không nắm được ý chính, ý trọng tâm của bài học. Nguyên nhân là do thói quen dạy và học thụ động, khiến học sinh chỉ biết tiếp thu kiến thức một chiều mà không chú trọng đến việc tự nghiên cứu tìm tòi để nắm được ý trọng tâm của bài học. 
Bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là một trong những bộ môn có dung lượng kiến thức và số tiết dạy nhiều. Bộ môn này được cấu tạo bởi 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì thế việc dạy Ngữ Văn cũng gặp nhiều khó khăn. Dung lượng kiến thức mỗi tiết rất dài và có độ khái quát rất lớn. Để giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người học đều phải tập trung cao độ, chuẩn bị kĩ nếu không sẽ không đủ thời gian. Trong khi đó, kiến thức phần này lại khó và rộng, chủ yếu là các khái niệm khoa học trừu tượng nên không phải người học nào cũng tạo cho mình một tâm lí thoải mái, hưng phấn khi học, thậm chí còn thấy mệt mỏi, kém hứng thú. Hơn nữa phương pháp chủ yếu trong các giờ học này là thuyết trình để chạy đua với thời gian nhằm đảm bảo dung lượng kiến thức. Vì thế, một trong những nội dung của phong trào thi đua “ Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” chính là đổi mới phương pháp dạy học để thay đổi tư duy và tăng sự hứng thú của cả giáo viên và học sinh . Từ đó cần tìm ra nhiều phương pháp phù hợp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng của việc dạy và học Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng. Để giúp học sinh có kĩ năng hệ thống, ghi nhớ kiến thức được lâu, được kĩ, tôi thấy áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS là vô cùng quan trọng và đó cũng là lí do tôi chọn lựa đề tài nghiên cứu " Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường THCS bằng bản đồ tư duy" này.
2. Mục đích nghiên cứu.
	Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu, vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp này rất có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn. BĐTD không chỉ giúp bài học được hệ thống một cách logic, dễ hiểu, dễ nhớ mà còn tạo được không khí sôi nổi trong lớp học, nâng cao tính tương tác giữa thầy và trò Đặc biệt là phương pháp dạy học này đã đem đến cho học sinh cái nhìn mới, tư duy mới về môn Ngữ văn.
	Với đề tài này tôi mong muốn hướng dẫn cho học sinh học văn nói riêng và học sinh nói chung cách xây dựng bản đồ tư duy trong việc học vào lúc nào và như thế nào để đạt hiệu quả. Đây là một phương pháp dạy học tích cực kích thích vai trò chủ động, sáng tạo và tự giác của người học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường. 
 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
	3.1. Đối tượng
	Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh của trường THCS Nga Tiến – Nga Sơn – Thanh Hóa năm học 2016 -2017.
	3.2. Phạm vi nghiên cứu:
	Như trên đã nói, môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông gồm ba phân môn với dung lượng kiến thức lớn với đặc trưng riêng của bộ môn gắn với đặc trưng của từng phân môn, nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến đi sâu vào phương pháp dạy học lập bản đồ tư duy chủ yếu gói gọn trong phân môn Tiếng Việt và một số văn bản ở các tiết cung cấp kiến thức mới.
4. Phương pháp nghiên cứu 
	Trong quá trình viết tôi có sử dụng các phương pháp: Quan sát, so sánh, đối chiếu, điều tra, phỏng vấn, phương pháp nghiên cứu tài liệu
II. PHẦN NỘI DUNG
	1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Để góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo học sinh thành những người năng động sáng tạo, biết vận dụng những kiến thức cơ bản để tìm tòi phát hiện kiến thức phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, chống lại thói quen học tập thụ động. Đổi mới phương pháp dạy học bao gồm đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức dạy học, đổi mới hình thức tương tác xã hội trong dạy học, đổi mới kĩ thuật dạy học với định hướng phù hợp với nội dung bài học cụ thể. Từ những định hướng và mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học việc áp dụng bản đồ tư duy trong các tiết ôn tập và một số tiết học lí thuyết đã tạo ra hiệu quả nhất định trong việc kích thích khả năng tư duy, phán đoán của học sinh.
Bản đồ tư duy trong thực tế được áp dụng nhiều ở các môn khoa học tự nhiên. Đối với các môn khoa học xã hội việc áp dụng sơ đồ tư duy còn nhiều hạn chế trong khi đó sử dụng sơ đồ tư duy giúp cho học sinh có khả năng ghi nhớ kiến thức một cách cụ thể hơn, đặc biệt kích thích khả năng tư duy, tìm tòi khám phá, phát hiện kiến thức của học sinh.
 Làm việc với bản đồ tư duy trong các tiết học môn Ngữ văn sẽ rèn được kĩ năng tư duy phát hiện kiến thức của học sinh. Việc áp dụng bản đồ tư duy có thể áp dụng cho nội dung từng phần học, bài học với khả năng sử dụng kiến thức của một cá nhân trong quá trình nhận thức và giải quyết thực tế. Bằng những tình huống rèn luyện trí óc, đòi hỏi học sinh phải vận dụng phối hợp các lĩnh vực đọc hiểu mới đưa ra được giải pháp lựa chọn kiến thức để bổ sung vào sơ đồ tư duy ở nhiều dạng của sơ đồ câm. Kết quả đạt được của quá trình dạy và học môn Ngữ văn cũng như các môn học khác sẽ khả quan hơn rất nhiều khi giáo viên và học sinh cùng biết áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS 
Bên cạnh vai trò của việc áp dụng BĐTD vào dạy học, một vấn đề lí luận quan trọng nữa cũng cần làm sáng tỏ, đó là vai trò của phân môn tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THCS. Tiếng Việt là một trong những môn có tầm quan trọng đặc biệt trong các môn khoa học xã hội - nhân văn, có vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn và phát huy tiếng nói dân tộc. Chất lượng dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông có quan hệ trực tiếp đến năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy của các thế hệ nối tiếp, và ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh tiếng Việt, vận mệnh văn hoá Việt Nam. Với tư cách là một môn học, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt, quy tắc hoạt động và những sản phẩm của nó trong mọi hoạt động và những sản phẩm của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, vì tiếng Việt là một công cụ giao tiếp và tư duy nên môn Tiếng Việt còn đảm nhận thêm một chức năng kép mà các môn học khác không có. Đó là chức năng trang bị cho HS công cụ để giao tiếp, tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường.
 Trong chương trình THCS, môn Tiếng Việt giữ vai trò “môn học công cụ” giúp HS tiếp nhận và diễn đạt tốt các thông tin khoa học được giảng dạy ở nhà trường. Nói cách khác, học sinh muốn thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, trước hết phải nghiên cứu và rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt - chìa khoá của nhận thức, của học vấn, của sựphát triển trí tuệ. Thiếu quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện năng lực tiếng Việt, HS không thể hoàn thành tốt được nhiệm vụ học tập của bất cứ bộ môn khoa học nào trong nhà trường. Ngược lại, trong quá trình học tập các môn khoa học đó, HS học được các thuật ngữ và vốn từ của các em sẽ giàu có hơn. Đồng thời, tiếp xúc với nhiều môn học, HS sẽ thấy được các cách diễn đạt phong phú của tiếng Việt trong các phong cách khác nhau, từ đó mà có thể rèn luyện cho mình kĩ năng sử dụng tiếng Việt .
Tóm lại, môn Tiếng Việt với tư cách là công cụ giao tiếp của xã hội, là bộ môn công cụ cho mọi bộ môn, đồng thời đó cũng là một trong những môn có tầm quan trọng đặc biệt trong các môn khoa học xã hội - nhân văn, có vai trò trọng yếu trong việc giữgìn và phát huy tiếng nói dân tộc
	2. Thực trạng của vấn đề.
 Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, kiến thức trừu tượng, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau.
 Hơn thế, từ trước đến nay khi dạy học Ngữ văn, giáo viên chủ yếu sử dụng các kĩ thuật dạy học đơn thuần truyền thống khi soạn giảng. Các tiết học chủ yếu được khai thác theo thứ tự khuôn mẫu, theo bảng hệ thống định sẵn. Vì vậy ít gây được hứng thú trong học tập của học sinh. Các tiết dạy học còn đơn điệu, dễ gây nhàm chán cho đại đa số học sinh .Việc tiếp thu kiến thức chưa có tính hệ thống khiến học sinh lâu nhớ mau quên. Đó là nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến kết quả dạy và học chưa cao ở bộ môn Ngữ Văn
 Nếu nhìn nhận vấn đề một cách khách quan ta dễ dàng nhận thấy đa số giáo viên còn chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó phải nhận thấy rõ đổi mới ở đây là đổi mới cả nội dung và hình thức hoạt động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức dạy học, đổi mới kĩ thuật dạy học với định hướng phù hợp với nội dung bài học cụ thể. 
 Một vấn đề nữa đặt ra trong dạy và học phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THCS là bài học Tiếng Việt chiếm tỉ lệ lớn trong nội dung chương trình và được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp, việc dạy Tiếng Việt không thể tách rời dạy học văn bởi Văn học( Văn bản) là ngữ liệu trực tiếp cho dạy học Tiếng Việt với ý nghĩa là ngữ cảnh rộng cho việc lý giải của các đơn vị ngôn ngữ, đồng thời ngôn ngữ văn học là một trong những chuẩn mực cho việc dạy học tiếng Việt hướng tới. Đây là tư tưởng được quán triệt trong việc xây dựng chương trình cũng như việc dạy văn học trong nhà trường. Tất cả các GV đều cho rằng môn tiếng Việt rất quan trọng đối với HS ở nhà trường THCS nhưng về thực tế chất lượng học tập môn tiếng Việt của HS chỉ ở mức độ trung bình vì HS không hứng thú học thậm chí không soạn bài trước khi đến lớp GV. Một thực tế đáng quan tâm hiện nay là HS không chủ động phát biểu xây dựng bài mà chỉ nghe giảng và ghi chép một cách thụ động, máy móc. Điều này dần dần hình thành thói quen lười suy nghĩ, ngại tư duy trong HS...
Trong những năm học gần đây, với tư duy đổi mới phương pháp dạy học, trong các đợt chuyên đề, chúng ta được tiếp cận với rất nhiều các kĩ thuật dạy học mới để góp phần đổi mới phương pháp, gây hứng thú cho học sinh với môn học. Song việc lựa chọn kĩ thuật dạy học nào vừa hiệu quả lại vừa phù hợp với đối tượng học sinh lại là một vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên đứng lớp. Trong quá trình dạy học và áp dụng kĩ thuật dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD), tôi nhận thấy đây là một phương pháp dạy học tích cực. Cùng với các mảnh ghép, khăn phủ bàn, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Sau kết quả điều tra ban đầu, tôi nhận thấy trên thực tế, đối tượng học sinh mà tôi được phân công giảng dạy, nhiều em còn lơ là trong học tập, năng lực ghi nhớ, trình bày và diễn đạt còn hạn chế. Tôi thấy cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể và tích cực hơn để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn nói chung và nâng cao khả năng ghi nhớ, tổng hợp kiến thức của học sinh nói riêng. Tôi đã tiến hành thực hiện đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, bên cạnh phương pháp giảng bình, vấn đáp đặc trưng, tôi đã lồng ghép vào các tiết học những kĩ thuật dạy học mới, trong đó có chú ý đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng BĐTD. 
	- Giới thiệu cho các em hiểu bản chất của bản đồ tư duy và vai trò của nó trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung.
	- Vận dụng bản đồ tư duy trong các tiết dạy học phần tiếng Việt
	- Hướng dẫn học sinh xây dựng bản đồ tư duy trong một tiết học 
	Từ những nhận thức về vai trò của bản đồ tư duy đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học, tôi vận dụng những bản đồ tư duy mẫu vào các tiết học ban đầu để học sinh làm quen rồi sau đó hướng dẫn học sinh tự xây dựng bản đồ tư duy trong quá trình tự học để đạt được hiệu quả ghi nhớ kiến thức cao. 
	3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường THCS bằng việc áp dụng kỹ thuật dạy học bản đồ tư duy.
 3.1. Biện pháp: 
3.1.1. Giới thiệu, hướng dẫn để học sinh hiểu, nắm vững vai trò, tác dụng của BĐTD trong việc học tập bộ môn:
- Khái niệm bản đồ tư duy: Theo Giáo sư Tony Buzan (Lônđôn- Anh), người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì: “Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ phát triển.
Tony Buzan đã sáng tạo ra bản đồ tư duy theo nguyên lí hoạt động của bộ não. Bản đồ tư duy không những sử dụng chữ, số, các dòng kẻ mà còn có thể sử dụng cả màu sắc và hình ảnh. Các dòng kẻ, chuỗi, chữ, số, và các danh sách được xử lí bằng chức năng thần kinh của não. Như vậy bản đồ tư duy là một công cụ hỗ trợ tư duy hiện đại, một kĩ năng sử dụng bộ não rất mới mẻ. Đó là một kĩ thuật hình họa, một dạng sơ đồ kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động của bộ não.
 - Nguyên lí hoạt động: Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy đúng theo nguyên tắc liên tưởng “ý này gọi ý kia” của bộ não. Ở vị trí trung tâm của bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay một khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm đó được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính. Từ các nhánh chính đó lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này tạo ra một bức tranh tổng thể mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ, rõ ràng.
- Phương thức tạo lập:
+ Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên mặt giấy .
+ Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm .
+ Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
-. Tác dụng của bản đồ tư duy:
+ Tiết kiệm thời gian, công sức.
+ Cung cấp bức tranh tổng thể. Kích thích tiềm năng sáng tạo.
+ Tổ chức và phân loại suy nghĩ. Ghi nhớ tốt hơn.
+Sử dụng rộng rãi, hiệu quả và dễ dàng ở nhiều môn học ở nhiều lĩnh vực.
3.1.2. Những lưu ý khi áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ Văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng:
3.1.2.1. Giáo viên hơn ai hết phải là người nắm vững: việc áp dụng BĐTD hay bất cứ một kĩ thuật dạy học nào cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là giúp học sinh khắc sâu được kiến thức bộ môn, thông qua BĐTD giáo viên giúp học sinh có hứng thú với môn học từ đó khơi gợi được tình cảm yêu quý môn học và tự giác khám phá vẻ đẹp bộ môn. Đó cũng là mục đích của các kĩ thuật dạy học nói chung khi đưa vào quá trình dạy học.
3.1.2.2. Thứ hai, là dù áp dụng BĐTD hay bất kì kĩ thuật dạy học nào thì người giáo viên cũng phải định hướng để đảm bảo tiết học diễn ra theo đúng đặc trưng bộ môn. Như trên đã nói, Ngữ Văn là một môn học thuộc khoa học xã hội song được xây dựng bằng tư duy hình tượng, bằng chất liệu đặc biệt là ngôn ngữ. Đặc trưng của một bộ môn nghệ thuật ngôn từ phải gắn liền với vẻ đẹp ngôn ngữ. Do đó, giáo viên phải thật khéo léo, tinh tế khi vận dụng các kĩ thuật dạy học, trong đó có BĐTD, tránh biến giờ dạy học môn Ngữ Văn thành giờ dạy Họa hoặc ngắt mạch tư duy hình tượng của học sinh, kĩ thuật dạy học vô tình trở nên phản tác dụng.
3.1.2.3. Để học sinh hứng thú với môn học, nhớ lâu kiến thức mà lại không xa rời đặc trưng bộ môn, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh hình thành được thói quen, cao hơn là kĩ năng lựa chọn những đơn vị kiến thức có thể áp dụng BĐTD. 
Thông thường trong môn Văn, BĐTD thường dùng trong phần tổng kết, để khắc sâu, hệ thống toàn bộ nội dung kiến thức của bài học. Với các văn bản nghệ thuật là kiến thức về tác giả, tác phẩm về nội dung, nghệ thuật; với phần Tiếng Việt là hệ thống hóa các kiến thức xoay quanh đơn vị ngôn ngữ được học...Từ kĩ năng chọn lựa đơn vị kiến thức có thể áp dụng BĐTD, học sinh dần rèn được thói quen khái quát hóa trong bộ môn, trong các môn học và cao hơn là áp dụng khả năng khái quát hóa trong các lĩnh vực của đời sống. Đó cũng chính là mục tiêu tăng thực hành, gắn kiến thức với thực tiễn đời sống mà yêu cầu của cuộc sống hiện đại đặt ra cho giáo dục hiện đại.
3.1.2.4. Để BĐTD thật sự là một phương pháp dạy học có hiệu quả, giáo viên không chỉ hướng dẫn để các nhân học sinh lập được bản đồ tư duy mà quan trọng hơn là còn gợi dẫn để học sinh biết thuyết trình về BĐTD mà mình vừa lập. Có thể giao cho một nhóm học sinh lập BĐTD khái quát hóa nội dung kiến thức đã học rồi thuyết trình trước tập thể, vừa rèn kĩ năng trình bày trước đám đông vừa giúp học sinh thay đổi không khí giờ học, tạo mối quan hệ thầy - trò, trò - trò...Đây cũng là một trong những yêu cầu của bộ môn theo đặc trưng môn học.
3.1.2.5. Dạy học các bài tiếng Việt với sự hỗ trợ của bản đồ tư duy phải đảm bảo sự tích hợp, phải tích cực hóa hoạt động học tập của HS, phải lấy học sinh làm trung tâm, phải đảm bảo các quy tắc vẽ bản đồ tư duy: nhấn mạnh, liên kết, mạch lạc..
3.1.3. Vận dụng BĐTD trong các tiết dạy học phân môn Tiếng Việt
3.1.3.1.Hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà
Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và giúp HS hình thành, phát triển năng lực tự học phải được thực hiện qua nhiều bước, nhiều khâu khác nhau trong quá trình dạy học, trong đó bao gồm cả việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp của cả GV và HS ở tất cả các môn học. Đổi mới PPDH Văn nói chung, dạy học Tiếng Việt nói riêng được thực hiện qua nhiều khâu, nhiều bước, nhiều thao tác. Muốn phát huy vai trò chủ thể của HS, GV phải biết khơi gợi, tổ chức, dẫn dắt HS tham gia tích cực, chủ động vào bài học. Để đạt được mục đích này, chính các em phải có sự chuẩn bị bài trước một cách khoa học qua phần hướng dẫn của GV.
Dạy học các bài tiếng Việt theo hướng sử dụng BĐTD như một công cụ hỗ trợ đòi hỏi HS phải là chủ thể tiếp nhận tích cực, đồng thời cũng yêu cầu HS một năng lực tự học nhất định. Mọi việc làm phải xuất phát từ sự chuẩn bị trước của HS. Không có sự chuẩn bị chu đáo một cách tự lực của HS, mọi bài dạy trên lớp đều không có hiệu quả theo đúng yêu cầu của nó.
Để tổ chức dạy các bài tiếng Việt trên lớp được tốt, GV cần hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà. Việc tiến hành trên lớp như thế nào? HS phải làm những gì? GV tổ chức dẫn dắt ra sao?... đều phải chuẩn bị trước. Muốn như vậy, GV cần hướng dẫn cho HS các bước sau đây:
Việc chuẩn bị bài của HS không chỉ đơn thuần là bước đầu làm quen với kiến thức mà còn là sự tổ chức lại kiến thức trong một cấu trúc mới để kiến thức trở nên tinh gọn hơn, giúp HS ghi nhớ kiến thức lâu dài. Do vậy, việc đầu tiên là phải thông hiểu kiến thức. Việc thông hiểu kiến thức này phải qua quá trình tư duy, qua việc thực hiện các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóađể xử lý

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_phan_mon_tie.doc