SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Khoa học lớp 5

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Khoa học lớp 5

Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Song song với nội dung chương trình là mục tiêu giáo dục mà luật giáo dục đã xác định: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, tri thức, thể chất thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cơ sở cho học sinh tiếp tục học lên. Để đạt được mục tiêu trên, bản thân tôi nhận thấy tầm quan trọng ở tất cả các môn học được dạy ở trường Tiểu học, trong đó có môn khoa học. Môn khoa học góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển toàn diện học sinh.

Môn khoa học được xây dựng trên cơ sở tiếp nối những kiến thức về tự nhiên và xã hội của môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1,2,3. Nội dung chương trình được cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo các chủ đề: Con người và sức khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Riêng lớp 5 có thêm chủ đề Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên nhằm giúp học sinh hệ thống hóa lại những kiến thức các em đã được học về tự nhiên, xã hội và con người.

 Tùy theo mỗi chủ đề, mỗi bài học mà giáo viên lựa chọn các phương pháp giảng dạy khác nhau nhằm phát huy được tính tích cực của học sinh. Tạo điều kiện để học sinh chủ động tìm tòi, tiếp nhận và chiếm lĩnh trí thức, phát huy được quan hệ hợp tác của học sinh khi học.

 Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy, qua dự giờ thăm lớp đồng nghiệp, cũng như kinh nghiệm giảng dạy lớp 5 lâu năm, tôi thấy việc dạy và học môn khoa học chưa được chú trọng, việc chuẩn bị cho tiết học chưa được chu đáo. Vì vậy không tạo được hứng thú học tập của học sinh. Đa số học sinh nắm nội dung bài học một cách sơ sài nên không khắc sâu được phần kiến thức cần lĩnh hội, nhanh quên các nội dung cần ghi nhớ. Việc vận dụng những kiến thức khoa học đã được học vào thực tế còn hạn chế. Học sinh chưa phát huy được tính tích cực trong giờ học, chưa chịu tìm tòi để phát hiện ra kiến thức.

 

doc 20 trang thuychi01 46819
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Khoa học lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ THANH HÓA
***************************
&
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5
Người thực hiện: Nguyễn Thị Nguyệt
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: TrườngTH Tân Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Khoa học
THANH HÓA NĂM 2016
Phòng giáo dục và đào tạo TP. Thanh Hoá
Trường Tiểu học Đông hương
......***......
&
Kế hoạch bài học
 Tuần: 19 Lớp: 5 A ( Buổi sáng)
 Từ ngày: 9/ 1 đến 13/1/2012.
 Giáo viên: Nguyễn Thị Nguyệt
Ngày........ tháng ...... năm 2012
 Ký duyệt của BGH
-
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ THANH HÓA
***************************
&
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH GIẢI TOÁN VỀ QUAN HỆ TỈ LỆ LỚP 5
Người thực hiện: Nguyễn Thị Nguyệt
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: TrườngTH Tân Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán
MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU	3
1. Lí do chọn đề tài.	3
2. Mục đích nghiên cứu.	4
3. Đối tượng nghiên cứu.	4
4. Phương pháp nghiên cứu.	4
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM	5
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.	5
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 5	
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.	 6 - 18
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 18
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19
1. Kết luận. 19
2. Kiến nghị. 19
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Song song với nội dung chương trình là mục tiêu giáo dục mà luật giáo dục đã xác định: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, tri thức, thể chất thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cơ sở cho học sinh tiếp tục học lên. Để đạt được mục tiêu trên, bản thân tôi nhận thấy tầm quan trọng ở tất cả các môn học được dạy ở trường Tiểu học, trong đó có môn khoa học. Môn khoa học góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển toàn diện học sinh.
Môn khoa học được xây dựng trên cơ sở tiếp nối những kiến thức về tự nhiên và xã hội của môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1,2,3. Nội dung chương trình được cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo các chủ đề: Con người và sức khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Riêng lớp 5 có thêm chủ đề Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên nhằm giúp học sinh hệ thống hóa lại những kiến thức các em đã được học về tự nhiên, xã hội và con người.
	Tùy theo mỗi chủ đề, mỗi bài học mà giáo viên lựa chọn các phương pháp giảng dạy khác nhau nhằm phát huy được tính tích cực của học sinh. Tạo điều kiện để học sinh chủ động tìm tòi, tiếp nhận và chiếm lĩnh trí thức, phát huy được quan hệ hợp tác của học sinh khi học. 
	Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy, qua dự giờ thăm lớp đồng nghiệp, cũng như kinh nghiệm giảng dạy lớp 5 lâu năm, tôi thấy việc dạy và học môn khoa học chưa được chú trọng, việc chuẩn bị cho tiết học chưa được chu đáo. Vì vậy không tạo được hứng thú học tập của học sinh. Đa số học sinh nắm nội dung bài học một cách sơ sài nên không khắc sâu được phần kiến thức cần lĩnh hội, nhanh quên các nội dung cần ghi nhớ. Việc vận dụng những kiến thức khoa học đã được học vào thực tế còn hạn chế. Học sinh chưa phát huy được tính tích cực trong giờ học, chưa chịu tìm tòi để phát hiện ra kiến thức.
Vì những lí do trên, bản thân tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu và đưa ra “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn khoa học lớp 5 ” với mục đích nâng cao chất lượng môn khoa học và phát huy tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong các giờ học.
2. Mục đích nghiên cứu:
	Qua việc nghiên cứu, tìm tòi và đưa ra một số giải pháp dạy học môn khoa học, định hướng cho giáo viên thực hiện tổ chức dạy học sao cho hiệu quả, phát huy được tính tích cực của học sinh; khắc phục một số hạn chế, khó khăn và lúng túng trong quá trình dạy học. Nhằm góp phần vào tiến trình đổi mới phương pháp dạy học, từng bước nâng cao dần chất lượng giáo dục môn khoa học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
	Các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh được vận dụng khi dạy môn khoa học ở Tiểu học. 
4. Phương pháp nghiên cứu:
 Trong quá trình nghiên cứu, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu về tâm lí giáo dục, tâm lí trẻ em, những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Điều tra bằng phiếu để thăm dò tình hình học tập môn khoa học của học sinh; Trao đổi với đồng nghiệp để có thêm thông tin về việc dạy học môn khoa học.
- Phương pháp thực nghiệm: Tôi dạy thực nhiệm ở lớp mình chủ nhiệm để khẳng định kinh nghiệm của mình là có hiệu quả.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Xử lý các số liệu thu được từ điều tra thực tiễn dạy học.
- Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp đàm thoại,..
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
Khoa học lớp 5 cũng là một trong những môn học chiếm vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học với thời lượng 2 tiết/ tuần. Đây là môn học tích hợp các nội dung của khoa học tự nhiên như vật lí, hóa học, sinh học với khoa học về sức khỏe con người. Vì vậy, môn học này có nhiều điều kiện thuận lợi để vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học để bước đầu hình thành cho học sinh phương pháp học tập mang tính chất tự tìm tòi nghiên cứu, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. 
	Dạy môn khoa học cần chú trọng phát huy tính tích cực của học sinh. Tạo điều kiện để học sinh chủ động tìm tòi, tiếp nhận và chiếm lĩnh tri thức, chú ý khả năng tự học của học sinh, phát huy được quan hệ hợp tác của học sinh khi học. Chính vì vậy người giáo viên cần biết phối kết hợp các phương pháp dạy học như : Phương pháp quan sát; phương pháp thí nghiệm; phương pháp nhóm; phương pháp trò chơi học tập nhằm khuyến khích sự tò mò khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ nội dung bài học.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Về giáo viên: 
Thực tiễn dạy học môn khoa học ở trường Tiểu học cho thấy, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học tập còn thụ động. Các thí nghiệm trong bài còn mang tính chất minh họa. Giáo viên còn tự mình trình bày, biểu diễn các thí nghiệm thực hành để minh họa cho kiến thức của bài học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động để các em chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách chủ động, thoả mãn nhu cầu tìm tòi hiểu biết, óc tò mò khoa học của học sinh. Vì vậy các giờ học còn mang tính áp đặt, kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh trong giờ học chưa cao, các em ít được tham gia vào quá trình dạy học. 
Bên cạnh đó, việc sử dụng đồ dùng học tập, các thiết bị dạy học chưa được giáo viên khai thác triệt để vào các tiết dạy. Việc giáo dục kĩ năng sống qua từng tiết học chưa có hiệu quả đối với học sinh.
b. Về học sinh: 
Học sinh chưa có ý thức học tập, chưa tự giác trong quá trình hợp tác, trao đổi với bạn bè, với thầy cô giáo, chưa tự giác trong học tập. Nhiều em chưa nhận thức đúng vai trò của môn khoa học, xem môn học như môn phụ. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, chưa tích cực tư duy, tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy cô thành tri thức của riêng mình. Các em học tập một cách thụ động, không hứng thú trong giờ học. Vì vậy kết quả chưa cao.
c. Khảo sát đầu năm:
Tổng số học sinh tham gia khảo sát : 42 học sinh lớp 5A.
Mức độ
Số lượng
Tỉ lệ %
Hoàn thành
36 học sinh
85,7%
Chưa hoàn thành
6 học sinh
 14,3 %
Từ thực trạng trên và qua kinh nghiệm dạy học lớp 5 lâu năm, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp dạy học môn khoa học nhằm nâng cao chất lượng môn học.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
3.1. Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mà trong đó học sinh tiến hành các thao tác trí tuệ có sự hỗ trợ của một số dụng cụ và những giác quan để nghiên cứu, tìm tòi, khám phá ra tri thức mới. Tất cả suy nghĩ và kết quả được học sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ. Đây là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với bậc Tiểu học, khi các em đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu các kiến thức về khoa học.
“Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mới nhằm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trên tinh thần của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sau khi được triển khai và áp dụng vào dạy học đã mang lại kết quả nhất định trong các trường Tiểu học.
* Phương pháp Bàn tay nặn bột có tác dụng:
 + Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng.
 + Học sinh được bắt tay vào hành động, tự tìm ra kiến thức cho mình, được sử dụng như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức mới, vì thế các em sẽ hiểu sâu và nhớ lâu.
 + Rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng: Tiếp cận vấn đề, đặt ra tình huống, nêu các giả thuyết, nhận định đề xuất, tiến hành thí nghiệm và đối chiếu.
 + Học sinh tích cực, năng động, có tinh thần trách nhiệm, tính nghiêm túc trong học tập và thực hiện các hoạt động học được yêu cầu bởi giáo viên.
* Các bước của tiến trình dạy học:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
          Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. 
          Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. 
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu.
          Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp “ Bàn tay nặn bột”. Bước này khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức. Hình thành biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu dưới nhiều hình thức như bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. 
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
          Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. 
          Ở bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh gặp khó khăn.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu.
          Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên cần nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí nghiệm chuẩn bị tiến hành để làm gì? Lúc này giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt đông. 
          Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm.
          Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên chỉ nhắc nhỏ trong nhóm đó hoặc với riêng học sinh đó, không nên thông báo lớn tiếng chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các nhóm học sinh khác.
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức.
          Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, giáo viên yêu cầu học sinh nêu ý kiến của nhóm sau khi thực hiện thí nghiệm (rút ra kiến thức của bài học). Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do giáo viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
* Ví dụ 1: Bài 30 : CAO SU
I. Mục tiêu : 
- Nhận biết một số tính chất của cao su.
- Nêu được một số công dụng, cách bảo quản các đồ dùng bằng cao su .
II. Chuẩn bị dùng dạy học: 
	- Học sinh chuẩn bị theo nhóm: 1 quả bóng cao su, 1 dây cao su; 1 ly nước, 1mảnh săm xe đạp.
	- Chuẩn bị vở thí nghiệm, bút, bảng nhóm.
	- Giáo viên: một cây nến, một bật lửa.
III. Cách tiến hành:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
- Giáo viên nêu yêu cầu: Em hãy kể tên các đồ dùng được làm bằng cao su?
- Giáo viên tổ chức trò chơi “Truyền điện” để học sinh kể được các đồ dùng làm bằng cao su.
- Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên đưa ra câu hỏi: Theo em, cao su có tính chất gì?
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh.
 Từ câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên, học sinh bộc lộ những suy nghĩ của mình và ghi vào vở thí nghiệm:
 - Cao su có tính đàn hồi.
- Cao su tan trong nước.
- Cao su không tan trong nước.
- Cao su cách nhiệt.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
* Đề xuất câu hỏi: Từ kết quả thảo luận khác nhau của các nhóm, học sinh đưa ra các câu hỏi đề xuất:
- Tính đàn hồi của cao su như thế nào?
- Cao su có tan trong nước không?
- Cao su có thể cách nhiệt được không?...
* Đề xuất phương án thí nghiệm: 
 Học sinh tiến hành thí nghiệm
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm, tìm tòi.
* GV tổ chức cho HS thực hành theo nhóm: 
+ Thí nghiệm 1: Ném quả bóng cao su xuống nền nhà.
+ Thí nghiệm 2: Kéo căng sợi dây cao su cho dãn ra sau đó buông tay.
+ Thí nghiệm 3: Nhúng mảnh săm cao su vào ly nước.
* HS quan sát và ghi kết quả vào vở thực hành thí nghiệm:
Các thí nghiệm
+ Thí nghiệm 1: Ném quả bóng cao su xuống nền nhà.
+ Thí nghiệm 2: Kéo căng sợi dây cao su cho dãn ra sau đó buông tay.
+ Thí nghiệm 3: Nhúng mảnh săm cao su vào ly nước.
Kết quả
- Quả bóng nảy lên.
- Sợi dây cao su trở về hình dáng cũ.
+ Mảnh cao su không tan.
+ Thí nghiệm 4: Giáo viên cùng học sinh làm trước lớp.
- Giáo viên mời 1 học sinh lên cầm 1 đầu sợi dây cao su, đầu kia giáo viên bật lửa đốt ( mời lần lượt đại diện mỗi nhóm một em lên cầm). Hỏi học sinh: Em có thấy nóng tay không? ( không bị nóng). Điều đó chứng tỏ điều gì?
Bước 5: Kết luận và rút ra kiến thức.
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả sau khi trình bày thí nghiệm.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh kết quả thí nghiệm với các suy nghĩ ban đầu để khắc sâu kiến thức.
- Học sinh nêu tính chất của cao su: cao su có tính đàn hồi tốt; ít bị biến đổi khi gặp nóng, lạnh; cách nhiệt; không tan trong nước.
- Giáo viên kết luận về cao su: 
+ Cao su có hai loại, cao su tự nhiên và cao su nhân tạo. Cao su tự nhiên được chế biến từ nhựa cây cao su. Cao su nhân tạo thường được chế biến từ than đá, dầu mỏ.
+ Cao su có tính đàn hồi tốt; ít bị biến đổi khi gặp nóng, lạnh; cách điện, cách nhiệt; không tan trong nước, tan trong một số chất lỏng khác.
+ Cao su được sử dụng để làm săm, lốp xe; làm các chi tiết của một số đồ điện, máy móc và đồ dùng trong gia đình.
* Ví dụ 2: Bài 53: CÂY CON MỌC LÊN TỪ HẠT
Mục tiêu: Chỉ trên hình vẽ hoặc vật thật cấu tạo của hạt gồm: vỏ, phôi, chất dinh dưỡng dự trữ.
Hoạt động 1: Tìm hiểu cấu tạo của hạt (Phương pháp “Bàn tay nặn bột”)
1. Chuẩn bị:
* Giáo viên:
- Hạt đậu Hà Lan. ( Ngâm trước vào nước lạnh khoảng 30 phút trước khi tiến hành tiết dạy để học sinh dễ tách), hạt lạc, hạt xoài
- Giấy vẽ và bút dạ.
*Học sinh:
- Chuẩn bị theo nhóm: Các loại hạt: Hạt đậu, hạt lạc, hạt xoài
- Dao nhỏ để tách hạt.
2. Cách tiến hành:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
- Giáo viên đưa ra một vài loại hạt ( hạt đậu, hạt lạc, hạt xoài... ) học sinh quan sát. Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề:
- Quan sát và cho biết đây là hạt ǵì? ( Học sinh nêu tên từng loại hạt)
- Theo các em trong hạt có gì? 
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh.
 Từ câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên, học sinh bộc lộ những suy nghĩ của mình bằng cách thảo luận nhóm sau đó vẽ và ghi chú tên các bộ phận của hạt và bên trong hạt.
	Kết quả thảo luận của các nhóm:
- Hạt có vỏ, phôi, ruột.
- Hạt có vỏ, mầm, ruột.
- Hạt có vỏ, phôi, cây con.
- Hạt có vỏ, phôi, chất dinh dưỡng.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
* Đề xuất câu hỏi: Từ kết quả thảo luận khác nhau của các nhóm, HS đưa ra các câu hỏi đề xuất:
- Có phải bên trong hạt có cây con?
- Có phải bên trong hạt có phôi?
- Có phải bên trong hạt có mầm?
- Có phải bên trong hạt có chất dinh dưỡng?
* Đề xuất phương án thí nghiệm: Vậy để biết trong hạt có gì, giáo viên yêu cầu học sinh đưa ra các phương án và chọn phương án tốt nhất.
	+ Các phương án: 
- Tách hạt ra để quan sát bên trong. 
- Xem hình vẽ trong sách giáo khoa.
- Xem tranh vẽ khoa học chụp hình cấu tạo bên trong hạt đậu 
	+ Chọn phương án tốt nhất: Tách hạt ra để quan sát.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - Nghiêm cứu.
- Giáo viên cho các nhóm học sinh thực hiện phương án tách hạt ( hạt đậu, lạc, xoài) ra để quan sát tìm hiểu cấu tạo bên trong hạt.
- Yêu cầu học sinh quan sát về các bộ phận bên trong của hạt. Sau đó vẽ và ghi chú lại xem trong hạt có những gì?
	+ Kết quả thảo luận của các nhóm:
- Hạt có vỏ, phôi, ruột.
- Hạt có vỏ, mầm, ruột.
- Hạt có vỏ, phôi, chất dinh dưỡng.
- Hạt có vỏ, chất dinh dưỡng, phôi.
Bước 5: Kết luận và rút ra kiến thức:
Từ kết quả thảo luận của học sinh, giáo viên cho học sinh quan sát thêm một tranh vẽ phóng to cấu tạo bên trong hạt đậu ( phóng lên màn hình bằng máy chiếu). 
 Học sinh quan sát tranh vẽ về cấu tạo bên trong của hạt đậu, vẽ lại hình và ghi chú lại kết quả. Lúc này học sinh sẽ tự điều chỉnh các thuật ngữ khoa học cần chú thích trong hình vẽ mà các em làm chưa đúng.
Giáo viên giới thiệu cấu tạo bên trong của hạt đậu với hình vẽ khoa học có sẵn (Hạt gồm: Vỏ, phôi, chất dinh dưỡng dự trữ). 
3. 2. Tăng cường tổ chức các trò chơi học tập.
Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt ở lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này. Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Phương pháp tổ chức trò chơi không chỉ là sự đánh giá trong quá trình dạy và học của thầy và trò mà nó còn tạo cảm giác thoải mái, tự tin, sự sáng tạo, nhanh trí, óc tư duy, tưởng tượng của học sinh. Thông qua trò chơi, học sinh được tập luyện, làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể theo sự phân công với tinh thần hợp tác. Đây là một trong những phương pháp dạy học có hiệu quả nhằm khuyến khích sự tò mò khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ nội dung bài học. 
* Vai trò của trò chơi học tập: 
+ Làm thay đổi hình thức học tập.
+ Làm không khí trong lớp học được thoải mái, dễ chịu hơn.
+ Làm 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_va_hoc_mon_kho.doc