SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A - Trường tiểu học Đông Sơn sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong văn miêu tả

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A - Trường tiểu học Đông Sơn sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong văn miêu tả

Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học. Tập làm văn giúp cho học sinh tạo ra văn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản. Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm văn bao gồm:

- Cung cấp kiến thức và hình thành,phát triển các kĩ năng bộ phận, góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản.

- Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các nghi thức đó.

- Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản nghệ thuật như kể chuyện, miêu tả.

- Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm văn (như kĩ năng quan sát trong văn miêu tả; kĩ năng xây dựng cốt cốt truyện, chi tiết, tình tiết trong văn kể chuyện).

- Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.

Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, phần lớn nội dung kiến thức dành cho văn miêu tả: Tả cảnh, tả người, tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối. Là lớp cuối cấp nên các em chính thức được học môn Tập làm văn thông qua việc phát triển các câu trả lời thành đoạn, thành bài văn. Thêm vào đó, giai đoạn này các em đã bắt đầu tiếp thu khái niệm về một bài Tập làm văn viết, đồng thời được học tương đối có hệ thống về kỹ năng xây dựng một bài Tập làm văn viết hoàn chỉnh. Có thể nói, đây chính là giai đoạn nền tảng để các em có thể học tốt môn Tập làm văn viết ở các cấp học tiếp theo.

 

docx 23 trang thuychi01 6253
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A - Trường tiểu học Đông Sơn sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN 
TRƯỜNG TH ĐÔNG SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5A - TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG SƠN SỬA LỖI DÙNG TỪ, ĐẶT CÂU TRONG VĂN MIÊU TẢ
Người thực hiện: Lê Thị Luyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Sơn
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
BỈM SƠN, NĂM 2018
	PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN 
TRƯỜNG TH ĐÔNG SƠN
TT
MỤC LỤC
Trang
A.
MỞ ĐẦU
I
Lí do chọn đề tài.
1
II
Mục đích nghiên cứu
1
III
Đối tượng nghiên cứu
2
IV
Phương pháp nghiên cứu
2
B.
NỘI DUNG
I
Cơ sở lí luận
2
1.
Một số đặc điểm của từ và câu
2
2.
Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học
4
3.
Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 5
4
II
Thực trạng vấn đề
5
1
Thuận lợi
5
2
Khó khăn
5
3
Kết quả của thực trạng
6
4
Nguyên nhân
8
III
Các biện pháp giải quyết vấn đề
8
1.
Biện pháp 1
8
2.
Biện pháp 2
10
3.
Biện pháp 3
10
4.
Biện pháp 4
14
IV
Kết quả
18
C.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I
Kết luận
19
II
Kiến nghị
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU
I.Lí do chọn đề tài.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học. Tập làm văn giúp cho học sinh tạo ra văn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản. Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm văn bao gồm:
- Cung cấp kiến thức và hình thành,phát triển các kĩ năng bộ phận, góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản.
- Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các nghi thức đó.
- Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản nghệ thuật như kể chuyện, miêu tả.
- Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm văn (như kĩ năng quan sát trong văn miêu tả; kĩ năng xây dựng cốt cốt truyện, chi tiết, tình tiết trong văn kể chuyện).
- Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, phần lớn nội dung kiến thức dành cho văn miêu tả: Tả cảnh, tả người, tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối... Là lớp cuối cấp nên các em chính thức được học môn Tập làm văn thông qua việc phát triển các câu trả lời thành đoạn, thành bài văn. Thêm vào đó, giai đoạn này các em đã bắt đầu tiếp thu khái niệm về một bài Tập làm văn viết, đồng thời được học tương đối có hệ thống về kỹ năng xây dựng một bài Tập làm văn viết hoàn chỉnh. Có thể nói, đây chính là giai đoạn nền tảng để các em có thể học tốt môn Tập làm văn viết ở các cấp học tiếp theo.
Trong thực tế dạy học tại lớp 5A-Trường Tiểu học Đông Sơn, tôiđọc rất nhiều bài văn miêu tả của học sinh thể hiện được khả năng tái hiện đời sống, tư duy linh hoạt, sáng tạo và trí tưởng tượngphong phú của các em. Tuy nhiên, những lỗi mà các em mắc phải khi làm mộtbài Tập làm văn miêu tả cũng không ít, trong đó các lỗi mà học sinh thường gặp nhiềunhất chính là lỗi dùng từ, đặt câu. Về phần cá nhân, tôi nhận thấy rằng,để dạy và học phân môn Tập làm văn được tốt thì việc nghiên cứu các lỗi vềdùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn của học sinh là công việc rất cần thiết. Việc làm này giúp cho giáo viên cũng như các bậc phụ huynh có thể phát hiện ra nhữnghạn chế của học sinh khi làm bài Tập làm văn, từ đó có phương pháp dạy họcTập làm văn nói chung và dạng bài văn miêu tả nói riêng cho các em phù hợp và hiệu quả hơn.
Chính vì những lí do trên, tôi đã mạnh dạn đi sâu tìm hiểu các lỗi dùng từ đặt câu trong văn miêu tả của học sinh lớp tôi chủnhiệm, tôi xin trình bày nội dung này dưới dạng văn bản với tiêu đề: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A, trường Tiểu học Đông Sơn sửa lỗi dùng từ đặt câu trong văn miêu tả.
II. Mục đích nghiên cứu.
- Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng các bài tập làm văn viết của học sinh lớp 5, tôi đã thống kê, khảo sát, phân tích, từ đó tìm ra các lỗi dùng từ, đặt câu mà học sinh thường mắc phải, nguyên nhân và cách chữa các lỗi đó. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng và dạy học Tiếng Việt nói chung ở Tiểu học.
- Giúp học sinh có cách nhìn sự vật theo hướng tích cực, ham thích quan sát, tìm tòi khám phá.
- Giúp giáo viên tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn nói chung và giảng dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
III. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng: Các lỗi dùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn miêu tả của học sinh lớp 5; Nguyên nhân và cách chữa các lỗi đó.
-Phạm vi: Thống kê, phân loại, chữa lỗi dùng từ và đặt câu trong c¸c bµi tËp lµm v¨nmiêu tả của học sinh Tiểu học lớp 5A trường Tiểu học Đông Sơn năm học 2017- 2018.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp khảo sát, phân tích thực trạng:
+ Khảo sát bài kiểm tra giữa kì 1 năm học 2017- 2018 của khối 5.
+ Khảo sát các bài tập làm văn miêu tả của lớp 5A.
- Tổng hợp số liệu.
- Phương pháp khảo nghiệm, áp dụng vào thực tế: Vận dụng kinh nghiệm giảng dạy mảng kiến thức vào thực tế.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận.
1. Một số đăc điểm của từ và câu
1.1 Khái niệm từ 
Từ là đơn vị hiển nhiên của ngôn ngữ. Về mặt ngữ pháp, có thể hiểu từlà đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và hoạt động tự do trong câu.
Từ có những đặc điểm:
- Có hình thức âm và ý nghĩa.
- Có tính sẵn có, cố định, bắt buộc.
- Là những đơn vị thực tại, hiển nhiên của ngôn ngữ.
Từ có hai chức năng cơ bản:
- Chức năng biểu nghĩa (biểu thị sự vật, hiện tượng).
- Chức năng tạo câu.
Tóm lại, từ của Tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến,mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhấtđịnh, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt nhỏnhất để tạo câu.[2]
1.2 Khái niệm câu
Câu là đơn vị ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp tự lập và có ngữ điệu kếtthúc mang một tư tưởng tương đối trọn vẹn kèm theo thái độ của người nóihoặc biểu thị thái độ của người nói, giúp hình thành và biểu hiện truyền đạt tưtưởng, tình cảm với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất.
Câu là đơn vị dùng từ đúng hơn là dùng ngữ mà cấu tạo bên trong quátrình tư duy thông báo, nó có nghĩa là hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp, cótính chất độc lập. Câu là một tập hợp từ được nối với nhau để diễn tả một ý tưởng tươngđối trọn vẹn. Khi nói phải ngắt giọng với câu, khi viết phải đánh dấu cuối câubằng một trong các dấu “.”, “?”, “!”.Có rất nhiều định nghĩa về câu, từ những định nghĩa trên ta đi đến mộtđịnh nghĩa tương đối đầy đủ về câu: Câu là một đơn vị ngôn ngữ được cấu tạobằng một cụm từ chứa đựng một nòng cốt cú pháp nhất định, diễn tả một nộidung thông báo hoàn chỉnh và có quan hệ với thực tế khách quan.[2]
1.3 Quy tắc sử dụng từ:
1.3.1 Dùng từ phải đúng âm thanh và hình thức cấu tạo
Từ là một đơn vị có nhiều bình diện, trong đó không thể thiếu mặt âmthanh và hình thức cấu tạo. Chonên, khi viết văn bản cần ghi lại đúng âm thanh và hình thức cấu tạo của từđược sử dụng. Nếu không sẽ không biểu hiện được chính xác và không làmcho người đọc văn bản lĩnh hội được chính xác nội dung, ý nghĩa.
1.3.2 Dùng từ phải đúng về nghĩa
Nghĩa của từ bao gồm cả nghĩa sự vật cả nghĩa biểu thái, bao gồm cả nghĩa đen, nghĩa bóng (nghĩa chuyển đổi,nghĩa phát sinh). Đây là hiện tượng nhiều nghĩa của từ. Khi muốn sử dụngmột từ theo cách chuyển đổi ý nghĩa, cần phải dựa vào nghĩa đen, nghĩa gốccủa từ, giữ được mối liên hệ với nghĩa gốc. Nếu không việc dùng từ sẽ mắc lỗi.
1.3.3 Dùng từ phải đúng về quan hệ kết hợp
Các từ khi được dùng trong câu, trong văn bản luôn luôn có mối quanhệ với nhau về ngữ nghĩa và ngữ pháp. Vì thế, khi dùng từ trong văn bản cần thiết lậpcho đúng các quan hệ kết hợp của các từ, vì các quan hệ này do bản chất ngữnghĩa – ngữ pháp của các từ quy định. Nếu không sẽ mắc lỗi khi dùng từ.
1.3.4 Dùng từ phải đúng phong cách ngôn ngữ
Mỗi phong cách ngôn ngữ văn bản được sử dụng trong một phạm vinhất định của cuộc sống xã hội và nhằm thực hiện một chức năng nhất định,hướng tới một mục tiêu giao tiếp nhất định. Vì thế, khi dùng từtrong văn bản cần ý thức rõ về phong cách văn bản để dùng từ cho đúng vàphù hợp. Nếu không sẽ mắc lỗi về phong cách.
1.3.5 Dùng từ phải đảm bảo tính hệ thống của văn bản.
1.3.6 Dùng từ cần tránh hiện tượng lặp, thừa từ không cần thiết và bệnh sáorỗng công thức.Dẫnđến những câu văn “đao to búa lớn” mà chung chung, nội dung nghèo nàn. [2]
1.4 Quy tắc thành lập câu
1.4.1 Phải viết đúng quy tắc ngữ pháp Tiếng Việt
- Đầy đủ thành phần câu.
- Đảm bảo đúng trật tự từ trong câu (do tiếng Việt là ngôn ngữđược loại hình đơn lập có đặc điểm quan trọng là từ không biến hình).
1.4.2 Câu phải có quan hệ ngữ nghĩa phù hợp với tư duy người Việt
Tức là, các nét nghĩa trong câu không mâu thuẫn nhau, thể hiện:
- Phản ánh đúng quan hệ trong thế giới khách quan.
- Quan hệ giữa các thành phần câu, các vế câu phải hợp logic.
- Quan hệ giữa các thành phần đẳng lập là quan hệ đồng loại (cùng mộtphạm trù ngữ nghĩa).
1.4.3. Câu phải có thông tin mới: đây là một yêu cầu đủ để đặt câu đúng.
1.4.4. Câu phâỉ đánh dấu câu phù hợp:
Đây là yêu cầu quan trọng để làmcho các quan hệ ngữ pháp, ngữ nghĩa được tách bạch, rõ ràng, tránh chongười đọc có thể hiểu sai ý nghĩa của câu.
1.4.5 Câu đặt ra phải phục vụ cho mục đích giao tiếp của văn bản.
1.4.6 Phải phù hợp với quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp.
1.4.7 Phải phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. [2]
2. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh tiểu học
Trẻ em là một thực thể hồn nhiên, vô tư và tiềm tàng khả năng pháttriển. Các em tiếp xúc với xung quanh, với xã hội và đánh giá, nhận xét mốiquan hệ đó theo chuẩn mực của bản thân. Tất cả hiện tại và tương lai trướcmắt các em vừa đơn giản nhưng cũng hết sức bí ẩn và hấp dẫn đối với các em.
Dạy Tập làm văn cho học sinh tiểu học là cần thiết, phù hợp với tâm lícủa trẻ: ưa tìm tòi, thích quan sát, khám phá và nhận xét cuộc sống xung quanh.
Đối với học sinh lớp 5, các em đã có vốn sống nhấtđịnh, đã bước đầu biết phân tích mối quan hệ giữa người với người trongnhững môi trường khác nhau, có thể thể hiện những sự kiện mà các em đãquan sát thấy trong cuộc sống bằng ngôn từ của chính các em.
Mặt khác, bước vào giai đoạn này (thời kì từ 10 đến 11 tuổi), sự cânbằng trong cơ thể trẻ đang bị phá vỡ, các em dễ xúc động cao. Tình trạngdâng cao cảm xúc khiến cho trẻ ở độ tuổi này có sự thay đổi đáng kể. Nếunhư ở giai đoạn trước, hoạt động sáng tạo mà trẻ yêu thích là vẽ thì ở giaiđoạn này lại là hoạt động sáng tạo bằng lời. Ở giai đoạn này, trẻ yêu thíchsáng tạo văn học, điều này thể hiện qua những trang văn miêu tả của các em.Những trang văn của trẻ là một thế giới trong sáng vô ngần mà ở đó ta sẽ thấynhững cái vừa đơn giản vừa mới lạ, hiểu và sẻ chia những cảm xúc, nhữngrung động, những lời đề nghị hết sức thân ái và xúc động mà đôi khi chúng takhông để ý, thờ ơ
3. Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 5
Trong chương trình Tập làm văn lớp 5 bao gồm những kiểu bài sau:
- Nói, viết phục vụ cuộc sống hàng ngày gồm 16 tiết.
- Miêu tả cảnh (18 tiết).
- Miêu tả người (15 tiết).
- Ôn tập tả đồ vật (4 tiết).
- Ôn tập tả cây cối (3 tiết).
- Ôn tập tả đồ vật (3 tiết).
Như vậy, dạng văn miêu tả chiếm thời lượng chủ yếu trong chương trình phân môn Tập làm văn lớp 5.Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng màcác em yêu mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, học sinh phải gửigắm tình yêu thương của mình với những gì mình miêu tả. Bài văn có đảm bảo yêu cầu này không còn phụ thuộc vào cách dùng từ, đặt câu của học sinh.
Sau khi tìm hiểu những vấn đề về đặc điểm của từvà câu, quy tắc thành lập câu, quy tắc sử dụng từ... Đây là một trong số nhữngvấn đề rất quan trọng để thấy được những quy tắc chuẩn và các lỗi mà họcsinh dễ nhầm lẫn. Từ đó làm cơ sở khoa học để nghiên cứu khảo sát thựctrạng các lỗi dùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn miêu tả của học sinh lớp 5và tìm ra các nguyên nhân, biện pháp khắc phục. Qua đó góp phần nâng caokhả năng dùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn viết cho học sinh lớp 5.
II. Thực trạng vấn đề.
1. Thuận lợi.
Trường Tiểu học Đông Sơn nằm phía Đông Bắc của thị xã. Hiện tại nhà trường đã có khu phòng học 2 tầng, khu nhà hiệu bộ, khu nhà bán trú...được thiết kế đúng tiêu chuẩn phù hợp với học sinh tiểu học. Nhìn chung cơ sở vật chất đảm bảo cho việc dạy và học.Chất lượng học sinh của trường luôn được chú trọng và nâng cao do Ban giám hiệu nhà trường có năng lực chuyên môn và năng lực quản lí tốt. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên của nhà trường đều có trình độ chuẩn trở lên, nhiệt tình trong công tác. Các em học sinh chăm ngoan, tích cực tham gia các hoạt động học tập. Năm học 2013 - 2014 và năm học 2014 - 2015 trường đạt được nhiều thành tích xuất sắc và được UBND tỉnh Thanh Hóa trao cờ thi đua, năm học 2015 - 2016 nhà trường vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen, đến năm học 2016 - 2017 trường Tiểu học Đông Sơn đã chính thức được công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ II. 
2. Khó khăn.
2.1. Về học sinh.
Trong năm học này, tôi được phân công dạy lớp 5A, lớp có 38 em học sinh. Chất lượng học sinh trong lớp được đánh giá là đều hơn so với lớp 5B và 5C. Nhiều học sinh trong lớp là con em các gia đình thuần nông, gia đình công nhân và gia đình buôn bán nhỏ lẻ của thôn Sơn Nam, thôn Trường Sơn..., một số em bố mẹ đi làm ăn xa nhà phải ở nhà với ông bà như em Duy Bình, em Nguyên... Một số em bố mẹ đi làm trong nhà máy Giày da, Công ty May 10 từ sáng sớm đến tối mới về như em: Trần Hiếu, Nhật, Gia Bảo, Quyết...sự quan tâm của cha mẹ còn hạn chế phần nào làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. Nhiều em được gia đình cho sử dụng các thiết bị điện tử thông minh tự do như: điện thoại, máy tính... các em nghiện các trò chơi trên mạng xã hội, ít quan tâm, ít giao tiếp với môi trường xung quanh nên vốn từ hạn chế, kĩ năng giao tiếp kém.
Mặt khác, học sinh lớp 5 thuộc lứa tuổi từ 11 đến 12 tuổi, là giai đoạn có nhiều biến đổi tâm lí, hoạt động. Ở lứa tuổi này, nhận thức của học sinh có những đặc điểm sau:
+ Về tri giác: vẫn còn mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và không chủ động, do đó nhiều khi các em phân biệt đối tượng trong bài Tập làm văn viết của mình bị nhầm lẫn.
+ Về tư duy: tư duy của các em còn mang màu sắc cụ thể và hình thức bằng cách dựa vào các đặc điểm của đối tượng, hiện tượng và chi tiết của sự việc, hiện tượng cụ thể.
+ Về trí nhớ: về phát triển trí nhớ từ ngữ- logic vẫn còn chịu ảnh hưởng của trí nhớ máy móc, làm được bài tập ứng dụng là do làm đi làm lại nhiều lần, làm được lúc đó nhưng thời gian sau thì lại quên.
+ Về khả năng chú ý: chú ý có chủ định phát triển hơn,nhưng một khi giờ học không hấp dẫn thì chú ý có chủ định lại không bền.
+ Về khả năng tưởng tượng: khả năng tưởng tượng phát triển phong phú mang tính hiện thực hơn. Tuy nhiên tưởng tượng của các em còn tản mạn, ít có tổ chức.
2.2 Về giáo viên.
Qua thực tế giảng dạy của bản thân và khảo sát bài kiểm tra của lớp 5C và 5B tại trường tiểu học Đông Sơn, tôi nhận thấy mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tiếp cận kiến thức trong sách giáo khoa. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn mà số lượng học sinh đông nên giáo viên chưa thể chữa hết lỗi dùng từ đặt câu cho từng học sinh trong mỗi bài văn miêu tả.
3. Kết quả của thực trạng.
Giữa học kì I của năm học này tôi đã tổng hợp kết quả 38 bài kiểm tra viết môn Tiếng việt của học sinh trong lớp. Kết quả làm bài như sau: 
Tổng số
Điểm 9 - 10
Điểm 7- 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
38
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
10
26,3
15
39,6
10
26,3
3
7,8
	Qua bảng tổng hợp ta thấy được kết quả học sinh đạt được còn thấp. Hầu hết các em làm bài đúng yêu cầu trọng tâm, bố cục bài văn rõ ràng nhưng vấn đề còn tồn tại đó là nhiều em mắc lỗi về cách dùng từ đặt câu khi viết bài văn miêu tả.
Để tìm hiểu vấn đề này, tôi đã thu các bài tập làm văn viết của học sinh, bài kiểm tra định kì giữa kì 1 năm học 2017 - 2018 của học sinh lớp 5A để thống kê các lỗi dùng từ, đặt câu của các em:
Sĩ số học sinh trong lớp là: 38 em
Số lượng bài được tổng hợp là: 114 bài
Các lỗi dùng từ, đặt câu mà học sinh mắc phải được thống kê như sau:
Bảng thống kê lỗi dùng từ
STT
Lỗi
Số lượng
Tỉ lệ
1
Lặp từ
25
43,1%
2
Dùng từ không đúng nghĩa
15
25,9%
3
Kết hợp từ
10
17,2%
4
Dùng từ không hợp phong cách
8
13,8%
5
	Tổng
58 lỗi
100%
Qua bảng thống kê trên, tôi thấy học sinh mắc nhiềulỗi về lặp từ (25 lỗi lặp từ, chiếm 43,1% tổng số lỗi dùng từ), làm cho câu văn rườm rà, tối nghĩa.
Ví dụ: Em Trần Phương Linh đã lặp lại cụm từ “của mình” ở hai câu liên tiếp.
Ví dụ nàycho thấy: Học sinh mắc cả lỗi về dùng từkhông đúng nghĩa, nhầm lẫn từ đồng nghĩa: thị xã và thị thành.
Bảng thống kê lỗi đặt câu
STT
Lỗi
Số lượng
Tỉ lệ
1
Câu thiếu thành phần chủ ngữ hoặc vị ngữ
18
35,2%
2
Câu sai nghĩa
10
19,6%
3
Câu không rõ nghĩa
9
17,6%
4
Câu thiếu dấu câu hoặc sai dấu câu
2
3,9%
5
Câu không tương hợp giữa các thành phần diễn đạt
12
23,7%
Tổng
51 lỗi
100%
Từ bảng thống kê trên ta có thể nhận ra ở lớp 5A học sinh ít mắc lỗi về sử dụng dấu câu, nhưng lỗi về viết câu thiếu thành phần chính lại tương đối nhiều.
Ví dụ: Em Đặng Hà Linh viết câu thiếu vị ngữ:
Với phạm vi hạn hẹp của bản Sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ tổng hợp những lỗi dùng từ, đặt câu trong bài văn miêu tả mà học sinh lớp 5A mắc phảivà các ví dụ cụ thể tôi sẽ trình bày kết hợp với phần biện pháp sửa lỗi. Tuy nhiên nhìn vào những con số thống kê trên chúng ta có thể thấy số lỗi dùng từ, đặt câu mà học sinh mắc phải trong bài văn miêu tả của học sinh là tương đối nhiều. Đây là hạn chế đối với quá trình dạy học Tập làm văn. 
4. Nguyên nhân:
Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trên gồm:
- Vốn kiến thức và kinh nghiệm viết văn miêu tả còn hạn chế, nhiều em chưa phân biệt được kể khác với miêu tả.
- Học sinh chưa có được kĩ năng quan sát sự vật thực tế, kĩ năng quan sát không được rèn luyện thường xuyên, quá trình quan sát hời hợt thiếu định hướng, thiếu tinh tế, khả năng liên tưởng còn hạn hẹp.
- Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, không hiểu nghĩa từ, dùng sai từ đồng nghĩa.
- Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc trong quá trình miêu tả.
- Giáo viên chưa có biện pháp giúp học sinh khắc phục lỗi.
- Chương trình sách giáo khoa hiện hành xây dựng chưa liền mạch còn có nhiều bất cập khiến học sinh khó tiếp cận. 
Có nhiều nguyên nhân cả về khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng trên. Vì vậy việc tìm ra nguyên nhân và đưa ra biện pháp khắc phục các lỗi đó là việc làm rất cần thiết và quan trọng.
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề.
Để giúp học sinh sửa được lỗi dùng từ đặt câu trong bài văn miêu tả nói riêng và góp phần năng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn nói chung, tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
1.Biện pháp 1: Làm giàu vốn từ cho học sinh bằng thực tế cuộc sống hằng ngày xung quanh các em
Làm giàu vốn từ cho học sinh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học, nhiệm vụ này không phải riêng của giáo viên mà cần có sự chung tay góp sức của cả cha mẹ các em. Hiện nay nhiều em học sinh lớp 5 không phân biệt và gọi đúng tên một số sự vật gần gũi trong đời sống xung quanh. 
Ví dụ: Không phân biệt được rau đay và rau mồng tơi, không phân biệt được củ gừng và củ nghệ...
Chính vì vậy, trong cuộc họp cha mẹ học sinh lần thứ nhất, tôi đã trao đổi những vấn đề học sinh còn hạn chế về kĩ năng dùng từ, kĩ năng viết câu và cha mẹ học sinh thống nhất cao một số vấn đề:
- Cha mẹ dành thời gian quan tâm tới các con nhiều hơn.
- Không cho con sử dụng điện thoại, máy tính một cách tự do, khuyến khích động viên các con ngoài giờ học ở trường nên tham gia các hoạt động bên ngoài như: giúp bố mẹ làm việc gia đình, chơi thể thao, chăm sóc cây rau...
Rất nhiều gia đình đã dành thời gian đưa con đi tham quanxung quanh thị xã vào dịp cuối tuần: Ví dụ: Gia đình em Phùng Anh, Gia đình em Bảo Châu...
Ở trường, tôi ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, tôi cho 

Tài liệu đính kèm:

  • docxmot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5a_truong_tieu_hoc_dong_s.docx