SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình dạy học mới VNEN

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình dạy học mới VNEN

Trong bài “Nên học sử ta” ghi trên báo “Việt Nam Độc lập” Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:

 “Dân ta phải biết sử ta

 Cho tường gốc tích nước nhà việt Nam”

Đất nước ta, nhân dân Việt Nam ta đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước với nhiều chiến công hiển hách, lẫy lừng. Là một người dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải yêu và hiểu biết về lịch sử của đất nước, của dân tộc mình. Chính vì vậy mà trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Lịch sử đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục học sinh (HS) tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống của dân tộc. Lịch sử là chiếc nôi để các em hiểu biết và hướng về cội nguồn lịch sử dân tộc. Dạy học lịch sử không chỉ khơi dậy các nhân vật, sự kiện lịch sử mà làm tái hiện lại một cách sống động lịch sử hào hùng của dân tộc. Lịch sử không thể tái hiện lại trước mắt học sinh ở trong phòng thí nghiệm hoặc trong thực tiễn mà thông qua việc tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.

Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết, nắm vững kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến tự hào về lịch sử dân tộc. Do vậy, việc khơi dậy niềm say mê, tìm tòi, tiếp thu kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học lịch sử là nhiệm vụ và mục đích của người giáo viên (GV) trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

Môn Lịch sử nói chung, phân môn Lịch sử lớp 4 bậc Tiểu học nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Về nội dung chương trình môn lịch sử lớp 4. Với dòng thời gian kéo dài từ buổi đầu dựng nước (700 năm trước Công Nguyên đến đầu thời Nguyễn giữa thế kỉ XIX) được chia làm 8 giai đoạn, 26 sự kiện lớn, 22 mốc thời gian cụ thể, rất nhiều đời vua, nhiều tên nước và nhiều kinh đô khác nhau.

 

doc 21 trang thuychi01 18483
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình dạy học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong bài “Nên học sử ta” ghi trên báo “Việt Nam Độc lập” Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: 
 “Dân ta phải biết sử ta
 Cho tường gốc tích nước nhà việt Nam”
Đất nước ta, nhân dân Việt Nam ta đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước với nhiều chiến công hiển hách, lẫy lừng. Là một người dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải yêu và hiểu biết về lịch sử của đất nước, của dân tộc mình. Chính vì vậy mà trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Lịch sử đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục học sinh (HS) tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống của dân tộc. Lịch sử là chiếc nôi để các em hiểu biết và hướng về cội nguồn lịch sử dân tộc. Dạy học lịch sử không chỉ khơi dậy các nhân vật, sự kiện lịch sử mà làm tái hiện lại một cách sống động lịch sử hào hùng của dân tộc. Lịch sử không thể tái hiện lại trước mắt học sinh ở trong phòng thí nghiệm hoặc trong thực tiễn mà thông qua việc tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết, nắm vững kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến tự hào về lịch sử dân tộc. Do vậy, việc khơi dậy niềm say mê, tìm tòi, tiếp thu kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học lịch sử là nhiệm vụ và mục đích của người giáo viên (GV) trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Môn Lịch sử nói chung, phân môn Lịch sử lớp 4 bậc Tiểu học nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Về nội dung chương trình môn lịch sử lớp 4. Với dòng thời gian kéo dài từ buổi đầu dựng nước (700 năm trước Công Nguyên đến đầu thời Nguyễn giữa thế kỉ XIX) được chia làm 8 giai đoạn, 26 sự kiện lớn, 22 mốc thời gian cụ thể, rất nhiều đời vua, nhiều tên nước và nhiều kinh đô khác nhau.
Với thời lượng 1tiết/tuần của phân môn lịch sử. Nếu giáo viên chỉ đơn thuần dựa vào sách hướng dẫn học mà không nghiên cứu sâu về phương pháp giảng dạy thì học sinh khó có thể ghi nhớ được lượng kiến thức lớn như đã nêu. Mặt khác, thực tế hiện nay, học sinh ở các bậc học nói chung đều không yêu thích học môn Lịch sử mà thường dành nhiều thời gian cho việc học Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh. Nhiều năm gần đây, tình hình HS học và tiếp thu, ghi nhận những kiến thức Lịch sử của dân tộc, của đất nước khá hạn chế. Đặc biệt là kết quả thi của bậc học THPT còn quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt ra câu hỏi tại sao các em lại ngại, lại không thích học hay thờ ơ với Lịch sử dân tộc, thờ ơ với Lịch sử đất nước như vậy? Đây là nỗi đau, sự trăn trở của người thầy, cô trước vấn đề này. Trước thực trạng đó tôi đã rất trăn trở trong việc đổi mới phương pháp dạy học, làm thế nào để các em hứng thú trong học tập và nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử. Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình dạy học mới VNEN” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
- Với đề tài này, tôi mong muốn được nâng cao nhận thức của bản thân về việc dạy học Lịch sử cho học sinh, tìm ra các biện pháp khắc phục tồn tại, khó khăn, giúp giáo viên soạn giảng linh hoạt, trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành kỹ năng học Lịch sử hiệu quả.
- Cung cấp những tri thức thực tiễn về tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4.
- Đề xuất một số biện pháp thực hiện dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4 theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy môn Lịch sử lớp 4.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 4.
Phương pháp dạy, học môn Lịch sử ở lớp 4.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp điều tra, quan sát
Phương pháp trải nghiệm
Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
 + Phương pháp đàm thoại – gợi mở.
Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 	 2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Cơ sở tâm sinh lí của việc dạy học Lịch sử.
	Để có giờ dạy Lịch sử thành công, chúng ta cần hiểu rõ về đặc điểm nhận thức và quá trình tư duy của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh là cơ sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở Tiểu học.
 	Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. 
 	Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng dạy kiến thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc biệt, tư duy của các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình bày phải hết sức coi trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất các biện pháp hình thành năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học.
2.1.2. Cơ sở sử học của việc dạy học Lịch sử trong trường Tiểu học. 
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được thực hiện ở tất cả các trường tiểu học trong cả nước. Đây là con đường giúp HS tiếp cận với tri thức mới, nhằm thay đổi cách dạy học truyền thống “thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép”. Theo quan điểm dạy học mới, dạy học là quá trình HS tự khám phá, tự tìm ra chân lí. Phương pháp dạy môn Lịch sử cũng không nằm ngoài định hướng đó. Đặc trưng nổi bật của nhận thức Lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Vì vậy nhiệm vụ tất yếu của dạy Lịch sử là phải tái hiện lại bức tranh Lịch sử, cho HS tiếp cận những thông tin từ sử liệu, các sự kiện, hiện tượng, nhân vật tiêu biểu – người thật, việc thật  trong lịch sử, những chứng cứ, những dấu vết của quá khứ. Tạo ra ở HS những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các nhân vật, sự kiện Lịch sử mà vẫn phải đảm bảo tính chính xác, khoa học; tính tư tưởng chính trị; tính vừa sức; tính thực tiễn - học đi đôi với hành. 
Lịch sử không chỉ là môn học có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho thế hệ trẻ. Nghị quyết Hội nghị TƯ 5 (khóa VIII) chỉ rõ: “Để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ trẻ có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý và Văn hóa Việt Nam". Nhưng trong thực tế, một bộ phận GV và cả HS vẫn còn những nhận thức chưa đúng về môn Lịch sử, xem nhẹ vai trò của Lịch sử, thờ ơ với môn học này dẫn đến chất lượng dạy và học không cao. Như vậy, muốn đào tạo con người phát triển toàn diện thì vấn đề cấp thiết là thay đổi cách dạy, cách học môn Lịch sử.
2.2. Thực trạng dạy – học Lịch sử ở trường Tiểu học.
 * Thuận lợi:
Chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới Việt Nam gọi tắt là VNEN được phân chia theo từng giai đoạn hay gắn với từng triều đại lịch sử. Các đề mục trong sách giáo khoa đã được biên soạn sắp xếp thành một hệ thống khoa học, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, màu sắc đẹp. Hình thức học thể hiện rất rõ nét, HS có thể tự điều hành lẫn nhau để tìm hiểu nội dung kiến thức. Sau mỗi bài đều có các bài tập vận dụng và có cả Hoạt động ứng dụng (Tìm kiếm sự hỗ trợ của người thân ) để củng cố, mở rộng kiến thức đã học
Địa bàn dân cư là nơi có điều kiện phát triển ít nhiều cũng hỗ trợ cho HS việc tìm kiếm thông tin bổ sung kiến thức khi cần thiết. Đa số HS tại điểm trường nơi tôi công tác đều được HS tiếp cận với công nghệ thông tin ,vì vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện nay cả phụ huynh và HS có điều kiện để tham khảo các tài liệu, sử liệu trên internet. Bản thân mỗi GV đều có thể tìm kiếm các tài liệu, sử liệu trên sách báo có liên quan, tự học để nâng cao hiểu biết, nâng cao tay nghề dạy học, góp phần làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động hơn. 
Giáo viên được thực hiện mô hình dạy học mới VNEN nên đã quen dần với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học của học sinh. Học sinh đã có ý thức hơn trong học tập, việc tổ chức các hoạt động học,chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua logo hướng dẫn học, bước đầu có ý thức học hỏi, tìm tòi, khám phá về Lịch sử. 
* Khó khăn
Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài theo sách VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Sự liên kết về mặt thời gian của các triều đại trong từng giai đoạn còn chưa rõ ràng . Nội dung bài khá dài và dàn trải.
Thiết bị dạy học phục vụ cho việc dạy học môn Lịch sử trong nhà trường còn nhiều hạn chế, thiếu tranh ảnh, mô hình, sa bàn, tư liệu
Nhận thức, quan niệm của một bộ phận GV đặc biệt là phụ huynh còn xem nhẹ môn Lịch sử mà chỉ chú trọng vào các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh. Vì vậy nên chưa đầu tư, quan tâm đúng mức vào chất lương dạy và học cho môn Lịch sử. Tình trạng GV khi dạy thường cắt xén thời gian, nội dung, chương trình còn HS học Lịch sử chỉ để đối phó vẫn còn xảy ra. Với HS lớp 4, môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với chính các em,Trong khi muốn cho HS yêu thích, hứng thú với môn học lại phụ thuộc rất lớn vào GV, việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn, khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, tưởng tượng, khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (nhanh nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chưa lưu loát, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em chưa tự tin khi hợp tác trong nhóm, một số em còn thụ động, các em chưa biết cách theo dõi kênh chữ kết hợp kênh hình để tìm hiểu nội dung bài. Vì vậy, sau thời gian tiếp cận với môn học, tôi đã khảo sát HS và thu được kết quả như sau :
Thời gian
Kết quả đạt được
Hoàn thành Tốt
 Hoàn thành
 Chưa hoàn thành
Đầu năm học: 2017- 2018
Tổng số HS 4A(30 em)
3
10
19
63,6
8
26.4
Có thể thấy rằng, số HS thích học, tìm hiểu về Lịch sử đạt ở mức hoàn thành tốt kết quả chưa cao. Vẫn còn nhiều HS ở mức chưa hoàn thành. Vì vậy, việc hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy Lịch sử cho học sinh. Đó cũng là lí do để tôi đưa ra các biện pháp áp dụng vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử 4.
2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4.
2.3.1. Biện pháp 1: Góp phần nâng cao nhận thức và quan điểm về môn học Lịch sử. 
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng xứng đáng trong nhà trường, số tiết vào loại ít nhất (1tiết/ tuần). Nội dung kiến thức dài và có phần cứng nhắc, HS ngại học.Vì vậy, phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: “Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hóa dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, vấn đề được đặt ra là: 
* Đối với giáo viên:
Phải luôn xác định rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích Lịch sử, phải tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về lịch sử. Việc bồi đắp kho tàng này không bao giờ là đủ mà phải được thực hiện liên tục, thường xuyên suốt cuộc đời. Bởi vậy, tôi luôn tìm đọc những cuốn sách về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, các tài liệu trên mạng internet để hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Giáo viên có yêu lịch sử thì mới có thể truyền được tình yêu đó đến học sinh của mình bởi vì ở cấp tiểu học các em xem giáo viên như thần tượng, như một chuẩn mực để các em hướng đến, các em bắt chước, làm theo. Với mô hình trường học mới VNEN phương pháp dạy và học đã có sự thay đổi, học sinh được chủ động học tập, chủ động tìm hiểu kiến thức song các em chỉ máy móc làm theo câu lệnh của sách chứ thực ra cũng không hiểu hoặc không nắm được cách học, cách ghi nhớ. Do đó, giáo viên vẫn là người đóng vai trò rất quan trọng. Lời giảng,lời kể của giáo viên rõ ràng, truyền cảm sẽ gây được sự chú ý của học sinh.
Giáo viên phải nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo hệ thống kiến thức chính xác, từ đó có phương pháp giảng dạy thích hợp.
Quá trình giảng dạy, bản thân mỗi GV phải hiểu và tái hiện được bức tranh lịch sử một cách sinh động, chân thực bởi dạy lịch sử phải đảm bảo tính chính xác, nói đúng sự thật, điều đó có tác dụng giáo dục niềm tin và gây hứng thú học tập, từ đó sẽ phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy, tôi không ngừng nghiên cứu, sưu tầm tài liệu để phục vụ cho việc giảng dạy, khi dạy phải có dẫn chứng minh họa cụ thể vì “Nói có sách, mách có chứng” thì mới thể hiện tính chân thực của lịch sử và như thế mới thuyết phục được học sinh. Mặt khác, thông qua những bài học Lịch sử, tôi luôn khơi dậy những tình cảm của học sinh đối với nhân vật, sự kiện lịch sử. Qua đó, giáo dục tinh thần đoàn kết, truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là chương trình mới VNEN luôn lấy HS làm trung tâm, HS là người chủ động chiếm lĩnh kiến thức vì thế tôi luôn dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp nhất đồng thời tôi sử dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học vấn đáp hay thảo luận, trao đổi theo hình thức cá nhân, cặp đôi hay nhóm để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Việc linh hoạt tổ chức đối tượng học sinh hoạt động theo nhóm cũng cần được quan tâm, tránh áp đặt cố định số lượng hoặc trình độ học sinh hay để học sinh quá đông trong một nhóm. Hệ thống câu hỏi cũng được tôi lựa chọn kĩ lưỡng, tôi thường xây dựng những câu hỏi ngắn, gọn, dễ hiểu, vừa sức, đi từ dễ đến khó và cần nhất là nổi bật trọng tâm bài học giúp HS hiểu, ghi nhớ nội dung bài tốt nhất.
Ví dụ: Nếu giải quyết chung một đề tài khó thì cần có sự đan xen về trình độ học sinh trong cùng một nhóm để các em hỗ trợ cho nhau. Nhưng cũng có lúc, tôi tạo điều kiện cho các em học sinh còn chậm, còn nhiều hạn chế cùng làm việc với nhau theo nhóm và dành riêng cho các em một đề tài dễ hơn . Đây cũng là lúc tôi phát huy vai trò của mình “ Dạy học phân hóa đối tượng học sinh.”
Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài học qua từng hoạt động học tập. Phân chia thời gian hợp lý. Có hình thức khen thưởng, khuyến khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài, tránh tối đa hình thức xử phạt, la mắng làm học sinh tự ti mà thu mình lại .
* Đối với học sinh:
Phải thay đổi suy nghĩ về môn Lịch sử bởi đây chính là môn học giúp HS tìm về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là môn học bổ trợ kiến thức cho các môn học khác.
HS phải có sự chuẩn bị bài (đọc, tìm hiểu nội dung bài trước khi tiến hành các hoạt động học tập. Tích cực sưu tầm tài liệu, sử liệu có liên quan đến bài học để việc học tập được tốt hơn. Đọc thêm sách báo, sách lịch sử, truyện kể lịch sử, xem phim lịch sử để bổ sung, tích lũy kiến thức về môn học. Khi vào lớp phải chú ý nghe giảng, nghe theo sự hướng dẫn của giáo viên, biết hợp tác chia sẻ với các bạn trong nhóm, trong lớp để tập trung và hoàn thành tốt nội dung bài học.
* Đối với phụ huynh: 
Thay đổi quan điểm, nhận thức Lịch sử chỉ là môn phụ nên không cần dành nhiều thời gian mà chỉ tập trung vào những môn cần thiết. Phụ huyngh phải thấy được trách nhiệm, vai trò của mình trong việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc từ đó giúp HS hiểu và có trách nhiệm với môn học, với chính bản thân mình. Ở tiểu học, phụ huynh có thể đọc sách cùng con, cùng tìm hiểu về các sự kiện, các trận đánh hay nhân vật, triều đại Lịch sử trên cơ sở định hướng, khắc sâu kiến thức và khơi gợi cho con ham thích tìm hiểu về Lịch sử nước nhà, từ đó sẽ yêu thích môn học hơn. 
2.3.2.Biện pháp 2: Trên sơ sở nắm vững chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 4. Phân loại dạng bài và xác định những phương pháp dạy học phù hợp
Các bài học Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Vì vậy, ở mỗi bài sẽ có sự vận dụng phương pháp dạy học cho từng tiết khác nhau. Do đó, GV cần xác định linh hoạt phương pháp dạy học cho từng nội dung kiến thức phù hợp.
. a) Dạng bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế - chính trị, văn hóa- xã hội.
Gồm các bài dạy: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng năm 700 TCN đến năm 179 TCN) - Tiết1: Nhà nước Văn Lang; Nhà nước Âu Lạc; Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập - Tiết1: Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc; Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm 1009 đến năm 1226) - (Tiết 1&2); Bài 5: Nước Đại Việt thời Trần. Bài 6: Nhà Hồ. Bài 8: Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê. Bài 9: Trịnh - Nguyễn phân tranh; Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị.
Sau mỗi bài học HS nắm được:
- Hoàn cảnh, địa phận, thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đô,
- Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước.
- Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh thần của con người trong xã hội.
- Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước.
- So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau.
 	Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử,
Vấn đề cần lưu ý: Phải mô tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh đất nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân. Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào và kết quả của những việc làm đó.
Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, phỏng vấn, tìm hiểu, thảo luận nhóm, sử dụng đồ dùng dạy học, chia sẻ trước lớp.
b) Dạng bài thứ 2: Dạng bài về các nhân vật Lịch sử gắn liền cuộc khởi nghĩa, các trận đánh. 
Gồm các tiết dạy: Bài 1: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập(Khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 (Tiết 2); Chiến thăng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 (Tiết 3). Bài 3: Buổi đầu độc lập (Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất do Lê Hoàn chỉ huy). Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2 (Lý Thường Kiệt). Bài 5: Nước Đại Việt thời Trần (cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên. Bài 7: Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời kì Hậu Lê (trận Chi Lăng). Bài 10: Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (Quang Trung đại phá quân Thanh).
Vấn đề 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_lich_s.doc