SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các bài toán chuyển động đều

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các bài toán chuyển động đều

 Các môn học ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực tư duy, phát triển khả năng suy luận. Mục tiêu này, được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng, vì toán học là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận biết cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là “chìa khoá” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại công nghiệp tiên tiến. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện.

Chương trình toán Tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, một số yếu tố hình học đơn giản, giải các bài toán về chuyển động đều.

 Xét riêng về loại toán chuyển động đều ta thấy đây là loại toán khó nội dung phong phú, đa dạng. Vì thế cần phải có phương pháp cụ thể đề ra dạy giải các bài toán này nhằm đáp ứng các nội dung bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh Tiểu học.

 

doc 17 trang thuychi01 12233
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các bài toán chuyển động đều", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Nội dung
Trang
Lí do chọn đề tài: 
1
1.4. Phương pháp nguyên cứu:
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
2
1.2. Mục đích nghiên cứu:
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
3
2.1 Cơ sở lí luận của sang kiến kinh nghiệm.
3
2.1.1.Các dạng toán chuyển động đều ở lớp 5
4
2.1.2. những yêu cần cần đạt hki giải toán chuyển động đều
6
2.2. Thực trạng của việc dạy và học toán chuyển động đều của học sinh lớp 5
7
2.3.Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các bài toán chuyển động đều
8
2.4. Hiêu quả của sang kiến kinh nghiệm
14
3. Kết luận và đề nghị
15
3.1. Kết luận
15
3.2. Đề xuất
1. MỞ ĐẦU
 1.1 Lí do chọn đề tài:
 Các môn học ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực tư duy, phát triển khả năng suy luận. Mục tiêu này, được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng, vì toán học là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận biết cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là “chìa khoá” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại công nghiệp tiên tiến. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện.
Chương trình toán Tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, một số yếu tố hình học đơn giản, giải các bài toán về chuyển động đều.
	Xét riêng về loại toán chuyển động đều ta thấy đây là loại toán khó nội dung phong phú, đa dạng. Vì thế cần phải có phương pháp cụ thể đề ra dạy giải các bài toán này nhằm đáp ứng các nội dung bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh Tiểu học.
	 Năm học 2015- 2016, 2016- 2017 là những năm học thực hiện đánh giá học sinh Tiểu học theo thông tư 30, thông tư 22 của bộ giáo dục là "đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, đánh giá định kì bằng điểm số kết hợp với nhận xét"; "kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh"; tiếp tục khẳng định "đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất".
 Theo thông tư 22 khen thưởng Học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện: kết quả đánh giá các môn học đạt Hoàn thành tốt, các năng lực, phẩm chất đạt Tốt; bài kiểm tra định kì cuối năm học các môn học đạt 9 điểm trở lên.
Từ thực tế dạy học tôi nhận thấy hai năm học vừa qua: Không chấm điểm nên cả năm học GV đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, tuy nhiên đến cuối năm làm bài thi thực chất, có học sinh đạt điểm dưới 5, có học đạt điểm 6-7, có học sinh đạt điểm 9- 10 không nhiều, giáo viên cũng rất hoang mang Nguyên nhân có phải do thay đổi cách đánh giá không? Do cách ra đề kiểm tra cuối năm quá cao ? hay học sinh chưa biết vận dụng kiến thức đã học để làm được các bài tập ở mức độ M3 và M4.
Từ những băn khoăn đó tôi đã liên tưởng tới việc dạy học và đánh giá học sinh của bản thân cũng như của đồng nghiệp, ttaats cả chúng tôi đều nhận thấy rằng:
 Trong đổi mới toàn diện giáo dục, Thông tư 30 là một trong những bước đi của việc đổi mới nhằm chuyển từ phương pháp dạy truyền thụ kiến thức sang phát huy khả năng của học sinh. Mục tiêu, ý nghĩa của Thông tư 30 rất tốt, nhằm đánh giá mọi mặt của học sinh, giúp học sinh tự hoàn thiện mình chứ không lấy điểm thi làm áp lực so sánh. Còn cách ra đề kiếm tra cuối năm tổ chuyên môn, nhà quản lí cũng đã bám sát vào thông tư ra theo 4 mức độ
 	Đề thi được phân loại theo từng mức độ rõ rệt, học sinh nắm được kiến thức cơ bản vận dụng để giải quyết được những vấn đề cỏ bản thì mới đạt được điểm 8. Để đạt điểm 9, điểm 10 học sinh phải biết vận dụng kiến thức để giải quyết được những vấn đề trong cuộc sống, giải quyết được những vấn đề mới. Vậy theo tôi để Hs đạt được điểm 9, điểm 10 trong bài kiểm tra định kì cuối năm ớ các môn học đặc biệt là môn toán ngoài việc nắm chắc kiến thức cơ bản, các em cần có kĩ năng làm tốt các bài toán vận dụng cuộc sống, các bài toán giải quyết được những vấn đề, tình huống mới. Tìm hiểu kĩ về môn toán ở lớp 5, tôi thấy các em còn lúng túng nhiều ở việc giải toán đặc biệt là toán chuyển động đều đây là dạng toán điển hình trong chương trình toán 5, đây cũng là dạng toán mà các em sẽ gặp nhiều trong các đề kiểm tra đánh giá (đề thi vào Trần Mai Ninh năm 2013- 2014, đề kiểm tra cuối năm năm 2015 -2016) . Vì vậy, tôi muốn giúp các em có phương pháp giải toán chuyển động đều một cách khoa học, không nhầm lẫn giữa dạng này với dạng khác. Để làm được việc đó, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để tìm ra đặc điểm của mỗi bài, mỗi dạng và có các phương pháp giải đặc trưng cho từng dạng bài tập. Vì lý do đó, tôi mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân giúp học sinh làm tốt các bài toán phần chuyển động đều ở chương trình toán 5, và tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các bài toán chuyển động đều”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm năng cao chất lượng giải toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5.
- Giúp học sinh nắm vững kiến thức, vận dụng một cách linh hoạt các kiến thức đã học để giải các dạng toán chuyển động đều khác nhau.
- Giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải được các bài toán có liên hệ thực tế thực tế ở mức độ M3 và M4. bài toán giải quyết những vấn đề, tình huống mới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
-Tìm hiểu về chương trình toán 5, các dạng toán điển hình.
- Tìm hiểu về nội dung toán chuyển động đều ở lớp 5( Số lượng tiết học, nội dung mỗi tiết)
- Tìm hiểu các dạng bài tập về toán chuyển động đều.
- Tìm hiểu phương pháp giải các dạng toán chuyển động đều.
-Tìm hiểu các lỗi các em thường mắc khi giải toán chuyển động đều.
1.4. Phương pháp nguyên cứu:
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Chọn đối tượng học sinh lớp 5 dạy thực nghiệm .
- Phương pháp quan sát: Qua dự giờ, thăm lớp để phát hiện những lỗi sai của học sinh.
- Phương pháp điều tra: Thống kê số lượng học sinh làm được bài toán chuyển động ( qua bài kiểm tra)
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục: Trên cơ sở quan sát, điều tra để tìm nguyên nhân, phân tích từng mặt của hoạt động rồi tìm biện pháp giải quyết, cuối cùng tổng kết kinh nghiệm.
	Là một bộ phận của môn toán ở Tiểu học, Toán chuyển động đều có vị trí vai trò riêng của nó, và biểu hiện cụ thể ở những đặc điểm sau:
 * Dạy giải bài toán chuyển động đều góp phần bồi dưỡng và phát triển năng lực trí tuệ một cách toàn diện.
	Mỗi bài toán đưa ra là một lần học sinh phải sử dụng rất nhiều các thao tác trí tuệ nhằm giải quyết các tình huống có vấn đề xảy ra. Toán chuyển động đều là một trong những loại toán khá phức tạp, thể loại đa dạng, phong phú. Vì thế đứng trước một bài toán chuyển động, học sinh phải phát huy cao độ tính năng động của các thao tác tư duy. Qua đó giúp học sinh giải quyết được các yêu cầu của bài toán. Đồng thời các em thấy được ý nghĩa của bài toán với hệ thống kiến thức đã học và chuyển những kinh nghiệm, kiến thức vừa có vào hệ thống kinh nghiệm, kiến thức của bản thân.
*Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần hình thành kiến thức, kĩ năng cơ bản.
	Học sinh Tiểu học chưa đủ khả năng lĩnh hội kiến thức qua lý thuyết thuần túy. Hầu hết các em phải đi qua các bài toán, các sơ đồ trực quan cụ thể, các em mới dễ dàng rút ra các kết luận, các khái niệm và các nội dung kiến thức cơ bản. Các kiến thức đó sau khi hình thành lại được cũng cố áp dụng vào các bài tập với mức độ nâng cao dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
*Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần bồi dưỡng năng khiếu toán học.
	Là một trong những thể loại toán điển hình có tính mũi nhọn, bài toán chuyển động đêu đặc biệt quan trọng. Nó góp phần không nhỏ trong việc phát hiện học sinh năng khiếu qua các kì thi, bởi vì đi sâu tìm hiểu bản chất của loại bài toán này ta thấy đây là loại toán phức tạp, kiến thức không nặng, nhưng nhiều bất ngờ ở từng bước giải. Thực tế cho thấy gần đây loại toán này được sử dụng khá rộng rãi trong việc ra các đề thi và các tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên và học sinh.
*Dạy giải các bài toán chuyển động đều gây hứng thú toán học, giáo dục tư tưởng tình cảm và nhân cách cho học sinh.
Qua giải bài toán chuyển động đều, không chỉ tạo được sự hứng thú say mê ở mỗi học sinh, mà còn tạo cho các em một phong cách làm việc khoa học chính xác, cần mẫn , sáng tạo.
*Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần cung cấp vốn hiểu biết về cuộc sống cho học sinh tiểu học.
	Các kiến thức trong toán chuyển động đều rất thực tế và gần gũi với thực tế hàng ngày như: quãng đường, thời gian, vận tốcsẽ được tính toán và áp dụng ra saoChính những bài toán chuyển động đều sẽ đáp ứng được yêu cầu đó.
 2.1.1. Các dạng toán chuyển động đều ở lớp 5.
Toán chuyển động đều của chương trình toán tiểu học với kiến thức cơ bản và sơ đẳng nhất. Ba đại lượng : quãng đường, thời gian, vận tốc được sách giáo khoa chia nhỏ trong chương trình và giới thiệu riêng từng đại lượng ở mỗi tiết học.
a) Loại đơn giản (Giải trực tiếp bằng công thức cơ bản, dành cho các tiết dạy học bài mới.) 
Dạng 1: Tính vận tốc của một chuyển động.
- Có quãng đường, thời gian . Tính vận tốc.
- Cách làm: lấy quãng đường chia cho thời gian.
- Công thức : v = s : t
Lưu ý : Đơn vị vận tốc km/giờ, m/phút, m/giây.
Dạng 2: Tìm quãng đường.
- Có vận tốc , thời gian . tính quãng đường.
- Cách làm : lấy vận tốc nhân với thời gian.
- Công thức: s = v x t
- Lưu ý: Đơn vị quãng đường là : km, m.
Dạng 3: Tìm thời gian.
- Có quãng đường và vận tốc. Tính thời gian.
- Cách làm: lấy quãng đường chia vận tốc.
- Công thức: t = s : v
- Lưu ý : Đơn vị thời gian là: giờ, phút, giây.
b) Dạng toán chuyển động đều - loại phức tạp: ( giải bằng công thức suy luận - dành cho các tiết luyện tập, thực hành)
Dạng 1: Hai động tử chuyển động ngược chiều nhau, cùng thời điểm xuất phát.
- Quãng đường = Tổng vận tốc x thời gian.
+ Công thức: s = (v1+v2) x t.
- Thời gian = Quãng đường : Tổng vận tốc.
+ Công thức: t = s : (v1+v2)
- Tổng vận tốc = Quãng đường : thời gian.
+ Công thức: (v1+v2)= s : t
Dạng 2: Hai động tử chuyển động cùng chiều đuổi kịp nhau, cùng thời điểm xuất phát.
- Ta xây dựng các công thức:
- Hiệu quãng đường = Hiệu vận tốc x thời gian.
s = (v1-v2) x t.
- Thời gian = Quãng đường : hiệu vận tốc.
t = s : (v1-v2).
Hiệu vận tốc = hiệu quãng đường chia thời gian
(v1-v2) = s : t.
Ngoài các dạng cơ bản trên trong thực tế giảng dạy còn gặp rất nhiều dạng bài toán khác mà trong cách làm bài học sinh phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức đã học để làm bài, đó là các dạng bài như:
Dạng 3: Hai động tử chuyển động ngược chiều lệch thời điểm xuất phát.( loại bài này hay có trong bài tập bổ trợ và nâng cao)
Ví dụ:
Bài 1: ( Toán bổ trợ và nâng cao lớp 5) Một ô tô khởi hành từ A lúc 7 giờ đi về B với vận tốc 60km/giờ. Đến 8 giờ ô tô khác khởi hành tại B đi về A với vận tốc 70 km/ giờ. Hai xe gặp nhau lúc 10 giờ. Tính khoảng cách từ A đến B?
Bài 2: ( Toán bổ trợ và nâng cao lớp 5) Lúc 7 giờ một ô tô khởi hành từ A đến B với vận tốc 65km/ giờ. Đến 8 giờ 30 phút một xe ô tô khác xuất phát từ B về A với vận tốc 75 km/ giờ. Hỏi hai xe gặp nhau lúc mấy giờ? Biết rằng A cách B 657,5 km.
Bài 3: ( Đề thi vào TMN năm 2014)
Hai người đi xe máy cùng xuất phát một lúc từ hai điểm A và B cách nhau 150 km, đi ngược chiều nhau và gặp nhau sau 3 giờ. Biết vận tốc người đi từ A gấp rưỡi vận tốc người đi từ B. Tính vận tốc của mỗi người? Để hai người gặp nhau ở chính giữa quãng đường AB thì người đi từ A xuất phát sau người đi từ B bao lâu.
- Dạng bài 1 và bài 2 nếu các em không đọc kĩ đề bài các em sẽ giải giống như dạng bài toán chuyển động ngược chiều cùng thời điểm xuất phát, không tính đến việc ô tô đi từ A đi trước bao nhiêu thời gian và quãng đường đã đi trước là bao nhiêu? Tính thời gian hai xe gặp nhau lúc mấy giờ sẽ tính như thế nào là đúng?
- Dạng bài 3 các em sẽ khó làm được nếu không biết đưa về dạng toán tổng tỉ thì không tìm được vận tốc của mỗi người. Để tính được hai người gặp nhau ở chính giữa quãng đường AB thì người đi từ A xuất phát sau người đi từ B bao lâu? Câu này các em sẽ sai nhiều do chưa biết cách suy luận: Mỗi người đi nữa quãng đường sẽ hết bao nhiêu thời gian, từ đó tính được người A sẽ đi trước người B bao lâu.
 Dạng 4: Hai động tử chuyển động cùng chiều lệch thời điểm xuất phát.
Ví dụ: 
Bài 1 ( BTTN): Một người đi xe đạp khởi hành từ A đến B với vận tốc 12 km/ giờ. Sau 3 giờ một xe máy cũng khởi hành từ A đến B với vận tốc 36 km/ giờ. Hỏi kể từ lúc xe máy bắt đầu đi thì sau bao lâu xe máy đuổi kịp xe đạp?
Bài 2: Lúc 6 giờ một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc 18 km/ giờ. Lúc 9 giờ một xe máy đi từ A đến B với vận tốc 45km/ giờ. Hỏi xe máy đuổi kịp xe đạp vào lúc mấy giờ? Địa điểm hai xe gặp nhau cách A bao nhiêu km biết rằng A cách B 115 km.
Bài 3 (Bài Kt cuối kì năm học 2015- 2016): Một xe máy đi từ A với vận tốc 36 km/giờ. Một giờ rưỡi sau một ô tô cũng đi từ A với vận tốc 60 km/giờ và cùng chiều với xe máy. Hai xe đến B cùng một lúc. Tính quãng đường AB?
 -Dạng bài tập như trên học sinh sẽ lúng túng khó phát hiện ra xe đi trước đi trước bao nhiêu thời gian và quãng đường đi trước là bao nhiêu? ( Đó chính là hiệu quãng đường ) .
 - Lúc hai xe gặp nhau đó chính là tổng thời gian của hai xe cùng đi với thời gian xe thứ hai bắt đầu đi
Dạng 5: Các bài toán khó cần sử dụng đến mối quan hệ giữa các đại lượng vận tốc quãng đường, thời gian, bài toán vật chuyển động trên dòng nước.. ( đây là dạng bài tập nâng cao)
- Khi chuyển động cùng vận tốc quãng đường càng dài thì thời gian đi càng lâu . 
 - Khi đi cùng thời gian quãng đường càng dài thì vận tốc càng lớn.
- Khi chuyển động cùng quãng đường thời gian ngắn thì vận tốc nhanh, thời gian dài thì vận tốc chậm ( Phải dùng từ như vậy vì toán tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch các em không được học trong chương trình tiểu học).
Ví dụ:
Bài 1: Một người đi xe máy từ A đến B mất 3 giờ. Lúc trở về người ấy đi chậm hơn so với lúc đi mỗi giờ 10 km nên thời gian lúc về nhiều hơn 1 giờ. Tính quãng đường AB?
Bài 2: Hai bến sông A và B cách nhau 54 km. Một ca nô xuôi dòng từ bến A đến bến B hết 2 giờ, nhưng khi ngược dòng từ B về A thì hết 3 giờ. Tính vận tốc của dòng nước chảy.
 - Dạng bài tập 1 khó với học sinh là phải hiểu được trên một quãng đường thời gian và vận tốc là hai đại lượng tỉ lệ nghich với nhau, từ đó từ tỉ lệ thời gian suy ra tỉ lệ vận tốc.
 - Dạng bài tập 2, khó với học sinh muốn tìm được vận tốc của dòng nước phải tìm được vận tốc của ca nô khi xuôi dòng và vận tốc của ca nô khi ngược dòng.
2.1.2. Những yêu cầu cần đạt được khi giải toán chuyển động đều.
Sau khi học xong phần lí thuyết giải các bài toán chuyển động đều, yêu cầu đạt được ở mỗi học sinh:
- Học sinh phải nắm vững từng dạng toán và nắm được cách giải từng dạng toán đó ở dạng tường minh nhất.
- Biết thực hiện đúng các bước của quy trình giải các bài toán nói chung và giải các bài toán chuyển động đều nói riêng, đặc biệt là bước tìm hiểu đề, phân tích, lập kế hoạch giải.
Biết sử dụng một số phương phương pháp điển hình để giải toán như:
Phương pháp , sơ đồ đoạn thẳng, suy luận
 - Học sinh có năng khiếu đòi hỏi phải nắm thành thục các thao tác, từ đó vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp giải và giải bài toán có chất lượng phức tạp để làm được các bài tập ở mức độ M3, M4.
2.2. Thực trạng của việc dạy và học toán chuyển động đều của học sinh lớp 5.
*Về phía giáo viên, sách giáo khoa:
	Qua những lần họp khối tôi cùng với các thành viên của khối trao đổi về vấn đề giảng dạy toán chuyển động đều, chúng tôi nhận thấy một số hạn chế sau:
	Thời gian phân bố cho toán chuyển động đều này rất hạn chế, chương trình thuộc chương 4 SGK nằm cuối học kì II sau mỗi bài vận tốc, thời gian, quãng đường chỉ có một tiết luyện tập, cả chương chỉ có 3 tiết luyện tập chung. Ở tiết luyện tập chung đề cập đến các bài toán chuyển động của hai động tử cùng chiều hoặc ngược chiều loại toán này vừa khó, vừa trừu tượng. Thời lượng ôn tập ít, bài tập luyện ít nên để giúp học sinh nắm bài và vận dụng làm được các bài toán ở mức độ M3 và M4 là rất khó. Khi giải bài toán loại này, học sinh thường mắc lỗi sai nhiều ở các bài toán chuyển động cùng chiều và ngược chiều không cùng thời điểm xuất phát.
* Về phía học sinh:
a/ Học sinh vẫn nhầm lẫn kiến thức cơ bản:
* Đổi đơn vị đo:
- Đổi các đơn vị đo độ dài, đổi các đơn vị đo thời gian hay đơn vị đo vận tốc
( km/ giờ thành m/ phút.)
* Không xác định rõ hai chuyển động cùng chiều hay ngược chiều, chuyển động cùng một thời điểm sẽ khác chuyển động ở hai thời điểm, thời gian về đích sau bao lâu hoặc lúc mấy giờ, thời gian gặp nhau sẽ được tính từ lúc cả hai chuyển động cùng xuất phát hay từ lúc vật chuyển động trước, sau..
b/ Sai lầm do học sinh không đọc kĩ đề bài, bỏ sót dữ kiện đưa ra trong bài toán :
Ví dụ : ( sgk) “ Quãng đường AB dài 25 km. Một người đi từ A đến B bằng xe máy đi được 5 km rồi đi ô tô hết nửa giờ thì đến B. Tính vận tốc của ô tô.
 	Có 9 học sinh lớp 5H đã giải toán như sau :
Bài giải:
	Vận tốc của ô tô là :
	25: 0,5 = 50 (km/giờ)
	Đáp số: 50 km/giờ
	9 em mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kĩ đề bài, bỏ sót một dữ kiện quan trọng của bài toán: “ Người đó đi xe máy 5 km rồi mới đi ô tô”.
	Đây chỉ là một trong những ví dụ học sinh mắc sai lầm loại này .
c/ Khi giải bài toán học sinh còn nặng về trí nhớ máy móc, chưa linh hoạt vận dụng các dạng toán tổng tỉ, tổng hiệu hay quan hệ tỉ lệ vào giải toán.
Đó là các bài toán có dạng tìm vận tốc khi biết có quan hệ tỉ lệ, khi biết quan tổng hoặc hiệu, hay quan hệ giữa vận tốc và thời gian
d/ Khả năng vận dụng làm các bài toán gắn liền với thực tiễn chưa cao
Bài toán vật chuyển động trên dòng nước.
Bài toán vật chuyển động có chiều dài đáng kể.
	Tóm lại: Đây là những khó khăn cơ bản của học sinh thường gặp khi giải bài toán chuyển động đều. trong quá trình giải, học sinh sẽ bộc lộ những sai lầm nhưng không phải rành mạch từng loại mà có những sai lầm đan xen bao hàm lẫn nhau. Người giáo viên phải nắm được những khó khăn cơ bản, làm cơ sở tìm hiểu những khó khăn cụ thể để giúp đỡ học sinh sửa chữa.
2.3. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các bài toán chuyển động đều.
	Qua điều tra thực trạng về dạy và học loại toán chuyển động đều và căn cứ vào nội dung toán chuyển động đều ở Tiểu học. Tôi mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy giải các bài toán cụ thể thuộc loại toán chuyển động đều như sau :
Phương pháp chung:
 + Bài toán chuyển động đều là dạng toán phức tạp, nội dung đa dạng, phong phú. Do đó việc yêu cầu học sinh đọc kĩ đề toán để xác định được dạng bài và tìm ra hướng giải đúng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên.
 + Khi dạy giải các bài toán chuyển động đều, giáo viên nên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
 + Khi dạy giải bài toán chuyển động đều cần hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ để các em vận dụng công thức một cách chính xác, linh hoạt.
 + Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán chuyển động đều, giáo viên cần hướng dẫn, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau và lựa chọn cách giải hay nhất.
 + Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động đều, giáo viên phải chú ý cho học sinh biết vận dụng mối tương quan tỉ lệ giữa 3 đại lượng; quãng đường, vận tốc, thời gian để giải được bài toán.
+ Giáo viên cần làm tốt những công việc sau :
- Xác định những yêu cầu và đưa bài toán về dạng cơ bản.
- Tự giải bài toán bằng nhiều cách (nếu có).
- Dự kiến những khó khăn, sai lầm của học sinh.
- Tìm cách tháo gỡ khó khăn, hướng dẫn, gợi ý để học sinh tìm được cách giải hay.
 b. Phương pháp giải một số dạng toán cụ thể.
Dạng 1 : Bài toán giải trực tiếp bằng công thức cơ bản :
	V = s : t
	S = v x t
	T = s : v
Ví dụ 1: Một đoạn đường dài 225m, một người đi xe đạp trong 45 giây. Tính vận tốc của người đi xe đạp ra km/giờ?
Bài giải:
Vận tốc của người đi xe đạp là:
22

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_lam_tot_cac_bai_to.doc