SKKN Một số biện pháp giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập tại lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi trường mầm non Vĩnh Tiến – huyện Vĩnh Lộc – tỉnh Thanh Hóa
Các chuyên gia về dạy trẻ đã từng nói: Yêu con trẻ - yêu tương lai! Ta có thể khẳng định rằng trẻ mầm non nếu nói về thời gian, đây là bước đi đầu tiên vào cuộc đời mỗi con người, là bước đi quan trọng nhất của cả một đời người. Thế nhưng không phải tất cả trẻ sinh ra đều được khỏe mạnh phát triển bình thường, đã có không ít trẻ ngay từ nhỏ mang trong mình một sự khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể, suy giảm các chức năng, hạn chế khả năng hoạt động, khó khăn trong sinh hoạt học tập, vui chơi và lao động.
Hiện nay tự kỷ là một vấn đề nóng trên toàn thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này. Tự kỷ là một dạng khuyết tật đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong giai đoạn hiện nay. Trẻ tự kỉ rất cần được hưởng mọi quyền lợi như những trẻ bình thường, được học trong môi trường bình thường, vui chơi cùng bạn bình thường. Đó là việc làm mang tính nhân đạo thể hiện quyền bình đẳng mà công ước quốc tế, luật bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em thừa nhận.
Trẻ tự kỷ có khiếm khuyết trong ba lĩnh vực: Tương tác xã hội, giao tiếp xã hội và tưởng tượng. Hành vi và sở thích bị thu hẹp và lặp lại. Tự kỷ có năm thể khác nhau trong đó có nhiều trẻ tự kỷ liên quan đến vấn đề sức khỏe (rối loạn ngủ, tiêu hóa, động kinh ). Chính những điều này làm cản trở và giảm hiệu quả của việc nuôi dưỡng, giáo dục và phát triển của trẻ tự kỷ.
Vì vậy, việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non hiện nay là việc làm quan trọng và cần thiết. Hòa nhập xã hội đối với trẻ tự kỷ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và giáo dục đối với trẻ trong tương lai của trẻ. Chúng ta cần thiết phải nhìn nhận trẻ tự kỷ là một đứa trẻ bình thường và hoàn toàn có thể thay đổi tiến bộ được. Để giáo dục trẻ tự kỷ có thể hòa đồng được với cuộc sống xã hội là cả một quá trình tác động lâu dài. Giáo dục giúp trẻ hòa nhập không phải là việc đơn giản. Chính vì vậy cần phải có sự tác động kiên trì, tâm huyết từ thầy cô, bạn bè, cha mẹ và những người thân xung quanh trẻ.
Mặc dù được các cấp lãnh đạo và Ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao nhưng với tôi đây là một vấn đề rất mới mẻ, hết sức khó khăn. Với nhiều năm trong nghề, đây là lần đầu tiên lớp tôi có một trẻ mắc bệnh tự kỷ học hòa nhập, bên cạnh khó khăn đó của bản thân thì trong thời gian đầu, phụ huynh trẻ mắc bệnh tự kỷ còn không chấp nhận sự thật về căn bệnh của con mình, không phối hợp với cô giáo để tìm ra những phương pháp giáo dục tốt nhất cho trẻ.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Các chuyên gia về dạy trẻ đã từng nói: Yêu con trẻ - yêu tương lai! Ta có thể khẳng định rằng trẻ mầm non nếu nói về thời gian, đây là bước đi đầu tiên vào cuộc đời mỗi con người, là bước đi quan trọng nhất của cả một đời người. Thế nhưng không phải tất cả trẻ sinh ra đều được khỏe mạnh phát triển bình thường, đã có không ít trẻ ngay từ nhỏ mang trong mình một sự khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể, suy giảm các chức năng, hạn chế khả năng hoạt động, khó khăn trong sinh hoạt học tập, vui chơi và lao động. Hiện nay tự kỷ là một vấn đề nóng trên toàn thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này. Tự kỷ là một dạng khuyết tật đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong giai đoạn hiện nay. Trẻ tự kỉ rất cần được hưởng mọi quyền lợi như những trẻ bình thường, được học trong môi trường bình thường, vui chơi cùng bạn bình thường. Đó là việc làm mang tính nhân đạo thể hiện quyền bình đẳng mà công ước quốc tế, luật bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em thừa nhận. Trẻ tự kỷ có khiếm khuyết trong ba lĩnh vực: Tương tác xã hội, giao tiếp xã hội và tưởng tượng. Hành vi và sở thích bị thu hẹp và lặp lại. Tự kỷ có năm thể khác nhau trong đó có nhiều trẻ tự kỷ liên quan đến vấn đề sức khỏe (rối loạn ngủ, tiêu hóa, động kinh). Chính những điều này làm cản trở và giảm hiệu quả của việc nuôi dưỡng, giáo dục và phát triển của trẻ tự kỷ. Vì vậy, việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non hiện nay là việc làm quan trọng và cần thiết. Hòa nhập xã hội đối với trẻ tự kỷ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và giáo dục đối với trẻ trong tương lai của trẻ. Chúng ta cần thiết phải nhìn nhận trẻ tự kỷ là một đứa trẻ bình thường và hoàn toàn có thể thay đổi tiến bộ được. Để giáo dục trẻ tự kỷ có thể hòa đồng được với cuộc sống xã hội là cả một quá trình tác động lâu dài. Giáo dục giúp trẻ hòa nhập không phải là việc đơn giản. Chính vì vậy cần phải có sự tác động kiên trì, tâm huyết từ thầy cô, bạn bè, cha mẹ và những người thân xung quanh trẻ. Mặc dù được các cấp lãnh đạo và Ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao nhưng với tôi đây là một vấn đề rất mới mẻ, hết sức khó khăn. Với nhiều năm trong nghề, đây là lần đầu tiên lớp tôi có một trẻ mắc bệnh tự kỷ học hòa nhập, bên cạnh khó khăn đó của bản thân thì trong thời gian đầu, phụ huynh trẻ mắc bệnh tự kỷ còn không chấp nhận sự thật về căn bệnh của con mình, không phối hợp với cô giáo để tìm ra những phương pháp giáo dục tốt nhất cho trẻ. Là một giáo viên trẻ có lòng say mê, nhiệt huyết với nghề, với mong muốn trẻ tự kỷ học tại lớp cũng được quan tâm và chăm sóc giáo dục như các trẻ bình thường để phát triển nhân cách toàn diện, tôi đã luôn băn khoăn, trăn trở, để tìm ra các biện pháp thực hiện hiệu quả. Qua một năm tích cực nghiên cứu, áp dụng các biện pháp hữu hiệu, trẻ mắc bệnh tự kỷ đã phát triển, tiến bộ rõ rệt, các cháu khác trong lớp đã có những kỹ năng giúp đỡ bạn mình hòa nhập và học tập tốt hơn. Do đó tôi xin mạnh dạn đưa ra đề tài sáng kiến kinh nghiệm: " Một số biện pháp giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập tại lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi trường mầm non Vĩnh Tiến – huyện Vĩnh Lộc – tỉnh Thanh Hóa". 1.2. Mục đích nghiên cứu Đánh giá thực trạng khiếm khuyết trong 3 lĩnh vực: Tương tác xã hội, giao tiếp xã hội và tưởng tượng. Xác định nhu cầu khả năng của trẻ tự kỷ khi học hòa nhập với môi trường giáo dục bình thường. Từ đó tìm ra các biện pháp giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập trong môi trường giáo dục bình thường. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Một trẻ tự kỷ lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi học trường mầm non Vĩnh Tiến- huyện Vĩnh Lộc- tỉnh Thanh hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã có một câu nói nổi tiếng: “Tàn mà không phế ”, đó cũng chính là thái độ của Đảng, chính phủ và nhân dân Việt Nam đối với bộ phận người tàn tật. Kế thừa truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “Thương người như thể thương thân”, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến những người khuyết tật trong xã hội, nhất là đối với trẻ em. Trong điều kiện đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế còn chậm phát triển, chúng ta đã từng bước xây dựng, thực hiện chính sách và biện pháp nhằm giúp đỡ người khuyết tật nói chung, nhất là giúp đỡ trẻ em bị khuyết tật về vật chất và tinh thần, vượt qua khó khăn riêng để hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng. Thực hiện Quyền về cơ hội giáo dục trẻ khuyết tật, theo Chỉ thị số 01-2006/CT-TTg, ngày 6-1-2006 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao nhiệm vụ: Biên soạn và trình Thủ tướng Chính phủ Chiến lược và kế hoạch hành động giáo dục trẻ khuyết tật giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2015. Mục tiêu của chiến lược giáo dục trẻ khuyết tật là đến năm 2015 hầu hết trẻ khuyết tật Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng và được trợ giúp để phát triển tối đa tiềm năng, tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội, trong đó mục tiêu cụ thể là đến năm 2010 bảo đảm cho 70% trẻ khuyết tật được đi học [6]. Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã ra quyết định số 23/2006/QĐ- BGDDT ngày 22/5/2006: Ban hành quy định về giáo dục hòa nhập dành cho người tàn tật, khuyết tật. Trong quyết định này nêu rất rõ mục tiêu giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật: "Giúp người khuyết tật được hưởng quyền học tập bình đẳng như những người học khác". Điều 12: Xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân dành cho người khuyết tật: " Mỗi người khuyết tật đều được lập hồ sơ giáo dục cá nhân, trong đó có các thông tin về: khả năng, nhu cầu; các đặc điểm cá nhân; mục tiêu hàng năm và mục tiêu học kỳ; thời gian thực hiện; nội dung, biện pháp thực hiện; người thực hiện; kết quả đánh giá và điều chỉnh sau đánh giá đối với người học" [1]. Tiếp đó là Phụ lục(Kèm theo công văn số 6818/BGD&ĐT-GDMN ngày 28 tháng 9 năm 2009):" Mẫu sổ theo dõi tiến bộ của trẻ" [2]. Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển suốt đời được thể hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, về hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại [5]. Chứng tự kỷ ảnh hưởng đến nhiều khả năng như trí hiểu, sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, biểu lộ tình cảm... Ở những cá nhân khác nhau, những biểu hiện bệnh cũng khác nhau về hình thái và mức độ. Mặc dù không thể chữa khỏi, nhưng phát hiện sớm bệnh và có những can thiệp hữu dụng có thể giúp trẻ tự kỷ phát triển chức năng tốt hơn và cải thiện được cuộc sống của trẻ. Mỗi một trẻ tự kỷ khác nhau sẽ được tiến hành các phương pháp giáo dục khác nhau. Giáo dục trẻ tự kỷ là cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu về cuộc sống xung quanh, áp dụng các biện pháp giúp trẻ hòa nhập trong lớp học, đồng thời áp dụng các phương pháp can thiệp hành vi không phù hợp. Từ đó trẻ tự kỷ biết sống tích cực, có kỹ năng giáo tiếp xã hội, phát triển ngôn ngữ, điều chỉnh hành vi phù hợp [3]. Ngày 22/7/2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư số 23/ 2010 Quy định về Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi ( PTTE5T): Chuẩn PTTE thể hiện sự mong đợi về những gì trẻ nên biết và có thể làm được dưới tác động của giáo dục trong các lĩnh vực phát triển nền tảng của trẻ: Phát triển thể chất, phát triển tình cảm và quan hệ xã hội, phát triển ngôn ngữ và giao tiếp, phát triển nhận thức. Bộ chuẩn PTTE còn là cơ sở cung cấp các thông tin phản hồi về sự phát tiển của cá nhân mỗi trẻ, giúp giáo viên và cha mẹ lựa chọn nội dung và các biện pháp giáo dục phù hợp, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ [4]. Đối với trẻ tự kỷ, tạo ra được môi trường sống, học tập hòa nhập trong một môi trường giáo dục bình thường sẽ là cơ hội tốt nhất để trẻ được phất triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách và chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Với trẻ khuyết tật bệnh tự kỷ việc cho trẻ tham gia vào các hoạt động là việc làm vô cùng khó khăn, tuy nhiên không vì thế mà trẻ không được hoạt động. Dưới sự dìu dắt của cô giáo hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần luôn cuốn trẻ vào trong mọi hoạt động diễn ra trong ngày. Cứ mỗi ngày như thế trẻ tự kỷ dần hình thành trong bộ não của mình sự tuần hoàn lặp đi lặp lại và khả năng ghi nhớ có chủ định của trẻ cũng được hình thành góp phần nâng cao chất lượng đại trà của nhà trường nói chung và của lớp nói riêng. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Khái quát về tình hình đặc điểm địa phương, trường mầm non Vĩnh Tiến: Xã Vĩnh Tiến là xã có diện tích rộng, nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Đời sống nhân dân ổn định, Đảng bộ và UBND xã luôn quan tâm đến ngành giáo dục của xã nhà. Trường mầm non Vĩnh Tiến là một trong những trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I và đang phấn đấu đạt chuẩn mức độ II . Năm học 2016 – 2017 trường Mầm non có số lượng như sau: Tổng số CBGV-NV: 20 ; Trong đó: BGH: 03; GV: 16; NV: 01 Tổng số học sinh là: 242 cháu. Tổng số lớp: 10 nhóm/ lớp. Trong đó: Nhà trẻ: 4 nhóm; Mẫu giáo: 6 lớp 2.2.2. Thực trạng: a. Thuận lợi: Năm học 2016 – 2017 tôi được Ban giám hiệu phân công dạy lớp 5 – 6 tuổi có 1 trẻ khuyết tật bệnh tự kỷ học hòa nhập: Cháu Trương Tấn Đạt Bản thân tôi là một giáo viên luôn nhiệt tình tâm huyết với nghề, yêu thương trẻ. Có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Lớp học rộng rãi, thoáng mát. Nhà trường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết cho các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại trường tương đối đầyđủ. Phụ huynh rất quan tâm đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ, hiểu, thông cảm và chia sẻ với những khó khăn thực hiện các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập tại lớp. Trẻ trong lớp có nề nếp ngoan, thông minh nhanh nhẹn, ham hiểu biết. Đối với trẻ tự kỷ: Thể chất: Trẻ có hình dáng, tầm vóc, chiều cao, cân nặng bình thường. Trẻ có khả năng thực hiện được các kĩ năng vận động thô, vận động tinh. Nhận thức: Trẻ có khă năng học tập, làm theo hướng dẫn, yêu cầu của cô. Trẻ có kỹ năng tự phục vụ: Tự xúc cơm ăn, tự uống nước khi thấy khát, tự đi vệ sinh. Ngôn ngữ: Trẻ có khă năng nghe, hiểu, biểu đạt ngôn ngữ đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu. Giao tiếp và hành vi: Trẻ có khả năng giao tiếp, bắt chước hành vi của người lớn, thực hiện theo yêu cầu của người lớn b. Khó khăn: Cơ sở vật chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn kém về chất lượng và thiếu về số lượng, chủng loại. Các cơ sở giáo dục trẻ khuyết tật chưa có những trang thiết bị tối thiểu cần thiết để dạy trẻ khuyết tật như sách giáo khoa và đồ dùng dạy học đặc thù cho từng loại trẻ khuyết tật. Giáo viên dạy trẻ khuyết tật chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu đủ về số lượng và chất lượng để tìm ra phương pháp hướng dẫn cho trẻ khuyết tật hòa nhập một cách có hiệu quả nhất Một số phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong việc giáo dục trẻ khuyết tật và về khả năng phát triển của trẻ khuyết tật khi được giáo dục. Bản thân phụ huynh cháu Trương Tấn Đạt ban đầu còn chưa chấp nhận về bệnh tự kỷ của con mình nên có khó khăn trong việc phối kết hợp chăm sóc giáo dục bé Trương Tấn Đạt ở trường và ở gia đình. Tuy ở cùng một độ tuổi nhưng khả năng nhận thức của mỗi trẻ là không đồng đều, khuyết tật thì khả năng nhận thức ở trẻ lại có những hạn chế, khả năng tập trung chú ý chưa cao, trẻ còn hành động theo bản năng của riêng mình là ảnh hưởng đến chất lượng dạy trẻ rất nhiều. Xuât phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, bản thân tôi đã trăn trở suy nghĩ học hỏi, chia sẻ để tìm ra những biện pháp giáo dục giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập trong môi trường giáo dục bình thường với mong muốn giúp trẻ tự kỷ lớp tôi tiến bộ, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ nhất là khi trẻ sắp bước sang trường tiểu học. 2.2.3 Kết quả thực trạng: Trước những khó khăn trên tôi đã tiến hành khảo sát các tiêu chí dành cho trẻ khuyết tật ( Cháu Trương Tấn Đạt) theo từng tuần như sau: Kết quả khảo sát vào thời điểm tháng 9 năm học 2016-2017 Stt Sự tiến bộ của trẻ theo tiêu chí Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 1 Trẻ biết tự đi vệ sinh +_ +_ +_ +_ 2 Trẻ biết tự rửa tay. _ _ +_ +_ 3 Trẻ biết tự ăn uống. _ _ +_ +_ 4 Biết súc miệng chải răng. _ _ _ _ 5 Biết tự mặc quần áo. _ _ _ _ 6 Hiểu khi nghe cô và các bạn nói. +_ + + + 7 Biết chơi cùng nhau. +_ +_ +_ +_ 8 Biết phát âm, nói rõ câu, từ +_ +_ +_ +_ 9 Biết đi lại 1 mình, biết cầm nắm các đồ dùng. _ _ +_ +_ 10 Biết tô màu, cầm bút _ _ _ +_ 11 Tham gia các hoạt động học tập, vui chơi. +_ +_ +_ +_ 12 Thực hiện các vận động thô. +_ +_ +_ +_ 13 Thực hiện vận động tinh trong giờ tạo hình. _ _ _ +_ 14 Tuân theo các qui định của lớp. +_ +_ +_ + Ghi chú: Rõ rệt: + ; Chưa rõ rêt: +_ ; Chưa đạt: _ 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Đánh giá và xác định nhu cầu khả năng của trẻ. Để nắm được khả năng của trẻ ngay từ đầu năm học tôi tiến hành đánh giá trẻ thông qua các câu hỏi, đặt ra các tình huống, tổ chức một số hoạt động quan sát, lao động, dạo chơi, trải nghiệm cho trẻ tự kỷ tham gia. Kết quả đánh giá trẻ tự kỷ của lớp tôi đầu năm học 2016 – 2017 có những mặt mạnh và mặt hạn chế cần được giúp đỡ như đã nêu ở phần thực trạng. (Bé Đạt tham gia giờ học làm quen với chữ cái: Những trò chơi với chữ cái g, y) Xác định và đánh giá đúng khả năng của trẻ tự kỷ từ đó tôi xác định được nhu cầu cần thiết dành cho trẻ. Trẻ cần được tạo điều kiện học tập và sinh hoạt, sự quan tâm và chăm sóc, thái độ của giáo viên và trẻ bình thường đối với trẻ khuyết tật bệnh tự kỷ học hòa nhập. Cụ thể: Phòng bệnh và dinh dưỡng hợp lí đảm bảo sức khỏe cho trẻ. Cho trẻ cơ hội phát triển khả năng vận động theo độ tuổi. Tiếp tục rèn kĩ năng phối hợp tay mắt: Cắt đường tròn vẽ sẵn, tô chữ cái, chữ số. Trưng bày sản phẩm tạo hình của trẻ tại lớp hoặc cho trẻ mang tranh về tặng người thân gia đình như một món quà với mong muốn được khuyến khích động viên giúp trẻ mạnh dạn tự tin vào khả năng của mình. Sử dụng những đồ vật có màu sắc hoặc âm thanh mà trẻ thích để hướng trẻ nhìn, nghe. Cho trẻ nhìn đối mặt với đối tượng quan sát. Cho trẻ tham gia vào các nhóm chơi, tập cho trẻ làm những phần việc đơn giản cùng bạn bè trong nhóm chơi. Khi trẻ có những biểu hiện cảm xúc khác lạ giáo viên cần quan tâm xử lí kịp thời, điều chỉnh hành vi bằng cách thay thế và hướng trẻ đến một hoạt động khác. Cho trẻ tham gia các hoạt động bằng nhiều hình thức, trò chuyện vui vẻ, cởi mở. Giải thích với trẻ về sự thay đổi thông qua hình ảnh và sử dụng hình ảnh lặp đi lặp lại mỗi khi thay đổi. Sử dụng hệ thống gợi ý bằng hính ảnh trực quan đi cùng với lời nói, tiếp xúc trực tiếp giữa cô - trẻ, trẻ - trẻ. Xây dựng hệ thống giao tiếp bằng hình ảnh. Tạo cơ hội cho trẻ tham gia hoạt động trong các không gian khác nhau. 2.3.2. Nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Từ đó xây dụng kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ tự kỷ học hòa nhập. Với trẻ tự kỷ, khả năng nhận thức, kỹ năng tham gia các hoạt động của trẻ tự kỷ không giống trẻ bình thường. Vì vậy kiến thức, kỹ năng cần được lựa chọn phù hợp với khả năng, nhu cầu của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm và dạy trẻ theo phương pháp cá biệt hóa. Trong quá trình giáo dục, cần xác định mục tiêu riêng cho trẻ khuyết tật tự kỷ xen kẽ can thiệp hành vi khi thực hiện các chủ đề cho mọi trẻ trong lớp. Với trẻ tự kỷ học hòa nhập ở lớp tôi phụ trách, khi đã đánh giá và xác định nhu cầu khả năng của trẻ tôi đã lựa chọn mục tiêu năm học 2016 – 2017 như sau: * Phát triển thể chất: Vận động thô: Trẻ giữ được thăng bằng khi đi trên ghế thể dục. Thực hiện được vận động chạy nhanh, chạy chậm, chạy đổ hướng theo tín hiệu, bò theo đường díc díc dắc. Phối hợp tay – mắt tung/ đập và bắt bóng. Thực hiện được bài tập bật nhảy. Ném xa bằng 1 tay, 2 tay. Các kỹ năng vận động thô: Được thực hiện trong bài tập thể dục sáng và vận động cơ bản theo chủ đề cùng các bạn, có sự trợ giúp của cô. Khi hướng dẫn và thực hiện cô hoặc bạn trực tiếp theo sát, quan sát và hỗ trợ trẻ, động viên khích lệ trẻ khi trẻ tham gia hoạt động cùng bạn. Vận động tinh: Cắt, xé giấy theo đường thẳng, theo hình vẽ. Tô màu tranh, tô chữ, vẽ hình, in hình. Nặn. Cài, cởi cúc, xâu, buộc dây. Tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe: Đảm bảo chế độ ăn đủ dinh dưỡng cho trẻ, cân nặng, chiều cao của trẻ phát triển bình thường theo lứa tuổi. Biết giữ gìn sức khỏe và tránh một số vật dụng nơi nguy hiểm, nơi không an toàn. * Kỹ năng tự phục vụ: Ăn uống: Biết tự xúc cơm ăn, tự uống nước khi thấy khát. Vệ sinh: Biết tự đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết rửa tay bằng xà phòng, lau mặt, chải răng. Tập cho trẻ rửa tay theo các bước giống như hình ảnh các bước rửa tay sạch sẽ. Cất gọn gàng đồ dùng cá nhân, đồ chơi đúng nơi quy định. * Phát triển ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp: Tăng vốn từ vựng cho trẻ Phát âm rõ các tiếng trong tiếng Việt chuẩn. Đọc thơ, kể chuện theo tranh. Sử dụng cử chỉ/ lời nói/ hành động để chào, chia tay, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, từ chối, đưa ra những thông tin trả lời câu hỏi. Yêu cầu trẻ sử dụng nhiều bằng lời nói trong giao tiếp. Cô luôn gần gũi bên trẻ, trò chuyện cởi mở với trẻ, nhìn vào mắt trẻ khi giao tiếp, yêu cầu trẻ nhìn vào mắt cô khi bày tỏ những nhu cầu hoặc giáo tiếp. Khen trẻ khi trẻ thực hiện được yêu cầu và khuyến khích trẻ cố gắng thực hiện. Luôn tạo cho trẻ cảm giác cô và các bạn luôn sẵn sàng giao tiếp giúp đỡ trẻ. Trẻ thấy tự tin hơn trong giao tiếp. * Phát triển khả năng nhận thức: Rèn khả năng tập trung chú ý vào các nhiệm vụ cụ thể, vào sự chỉ dẫn, vào các đồ vật, sự vật, hiện tượng xung quanhtrong một thời gian nhất định để hiểu và học tập. Rèn khả năng ghi nhớ có chủ định, vận dụng được kiến thức đã học vào trong sinh hoạt, vui chơi. Trong khi tổ chức các hoạt động học, cô dành thời gian hướng dẫn riêng cho trẻ độ 1 - 2 phút, trẻ có thể thực hiện theo khả năng , không ép trẻ thực hiện khi trẻ không hứng thú và tiếp tục hướng trẻ thực hiện vào giờ hoạt động góc, hoạt động chiều hoặc ở tại gia đình trẻ. Khi trẻ thực hiện có thể bật nhạc không lời tạo cảm giác thư giản giảm sự căng thẳng cho trẻ để giúp trẻ tập trung được lâu hơn. Vì khả năng tập trung của trẻ tự kỷ ngắn hơn các bạn, để duy trì thời gian còn lại của giờ học có thể thay đổi hoạt động khác trong khi các trẻ khác vẫn tiếp tục học bình thường. * Phát triển kỹ năng xã hội: Thực hiện một số quy định: Để đồ dùng đúng nơi quy định, giữ trật tự khi ăn, ngủ... Sử dụng lời nói và cử chỉ lễ phép. Biết chờ đến lượt. Hợp tác, chơi thân thiện với bạn. Phân biệt hành vi đúng, sai, tốt, xấu. Giảm thiểu hành vi cúi đầu chạy, ăn vạ. Kỹ năng về các mặt hành vi cần thay đổi dành cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Khi mắt trẻ không nhìn đối diện với người trực tiếp giao tiếp, cần yêu cầu trẻ nhìn đối mặt. Ví dụ buổi sáng trẻ đến lớp chào cô nhưng không nhìn vào mặt cô, cô cần nhẹ nhàng ngồi thấp xuống ghế nhìn vào mặt trẻ âu yếm: Cô chào Đạt, và bảo trẻ con nhìn vào cô và chào cô Hằng nào! khi ấy cô ngôi đối diện với trẻ và trò chuyện với trẻ về buổi sáng ở nhà con ăn gì? Con đến lớp có vui không?...Thời gian giao tiếp tăng dần để trẻ nhìn vào mắt cô được lâu hơn và thành thói quen khi giao tiếp với mọi người. Kỹ năng liên quan đến xúc cảm và tâm lý thường xảy ra trong các thời điểm khác nhau trong ngày. Ví dụ: Giờ đón trẻ buổi sáng, các bạn rủ bé cùng chơi, Bé Đạt không thích phẩy tay ban ra rồi ngồi khóc. Lúc này cô giáo phải đến bên bé Đạt trò chuyện dỗ dành dẫn bé chơi trò bé thích như xem tranh bé vẽ ở góc nghệ thuật... * Chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng: Đảm bảo chế độ chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Thiết lập và
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_tre_tu_ky_hoc_hoa_nhap_tai_lo.doc