SKKN Một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi lớp A1 tại trường mầm non Nga An
Nhà tâm lý học người Anh M.Acgain, đã khẳng định “giao tiếp là quá trình hai mặt của sự thông báo, thành lập sự tiếp xúc, trao đổi thông tin”[1]. Lúc này, khái niệm giao tiếp được khai thác với chức năng trao đổi, tiếp nhận thông tin giữa con người với con người trong xã hội. Trong nghiên cứu về giao tiếp, các nhà Tâm lý học Pháp P.Oathavut, G.Bivans, D.Giactson, đã coi “giao tiếp là một tổ hợp hành vi hay nói cách khác, giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên diễn ra giữa con người với nhau, quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi, hành vi ngôn ngữ, hành vi phi ngôn ngữ”[2]
Ngay từ khi bé chào đời, thì giao tiếp đã là một kỹ năng quan trọng giúp bé tồn tại và phát triển, bé giao tiếp qua ánh mắt, qua các cử động của tay chân và đặc biệt là qua tiếng khóc. Một người mẹ có sự quan tâm và gần gũi con chắc chắn sẽ hiểu khi nào bé khóc vì đói, khi nào bé khóc vì đau, vì sợ và cả vì nhõng nhẽo nữa !
Khi biết nói ở lứa tuổi lên 3, thì bé bắt đầu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, đồng thời với khả năng bộc lộ cảm xúc thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ qua ánh mắt với những nét mặt và các dấu hiệu của cơ thể, nếu được đáp ứng đầy đủ sẽ giúp cho bé hình thành sự tự tin vào bản thân cũng như xây dựng những mối tương giao với mọi người xung quanh.
Vì thế kỹ năng giao tiếp được xem là một năng lực cần thiết cho trẻ mở rộng quan hệ từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Đây là một kỹ năng phức tạp bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, vì thế ngoài năng lực nội tại của trẻ, phụ huynh cũng cần quan tâm giúp trẻ phát triển về kỹ năng giao tiếp bằng cách kích thích nhiều giác quan, mà chủ yếu là nghe - nhìn và đụng chạm.
Ngôn ngữ được xem là công cụ chính trong việc giao tiếp, từ khi sinh ra cho đến khi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên thì trẻ giao tiếp bằng tiếng khóc, và cử chỉ, ánh mắt. “Khi trẻ bắt đầu nói và ngôn ngữ sẽ được phát triển rất nhanh từ khi trẻ trên 12 tháng, cho đến khi trẻ được 5 tuổi thì ngôn ngữ đã hoàn thiện, trẻ có đủ vốn từ (khoảng 2000 từ) để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày”[3]. Việc giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ thông qua việc trò chuyện với trẻ, cho trẻ chơi những trò chơi phát triển ngôn ngữ, đọc sách hay kể chuyện cho trẻ nghe là những hoạt động cần thiết để giúp trẻ đạt được sự giao tiếp tốt nhất.Tuy nhiên, không phải cứ nói nhiều, nói hoài với trẻ là tốt, mà nhiều khi một bà mẹ nói chuyện quá nhiều với con, nói những câu dài và trả lời luôn cho con khiến trẻ chỉ biết gật gù, lại là một trong những nguyên nhân gây ra sự thụ động hay chậm nói cho trẻ.
MỤC LỤC NỘI DUNG Trang I. MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 1. Cơ sở lý luận 2 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 Giải pháp 1: Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 Giải pháp 2: Giáo dục kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động học 6 Giải pháp 3: Giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ thông qua hoạt động góc 8 Giải pháp 4: Rèn kỹ năng giao tiếp thông qua các hoạt động khác 10 Giải pháp 5: Giúp trẻ phát triển các kỹ năng giao tiếp qua việc tổ chức các trò chơi và các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường 12 Giải pháp 6: Tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ hình thành cho trẻ các kỹ năng và thói quen trong giao tiếp 14 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 15 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 16 1. Kết luận 16 2. Kiến nghị 16 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nhà tâm lý học người Anh M.Acgain, đã khẳng định “giao tiếp là quá trình hai mặt của sự thông báo, thành lập sự tiếp xúc, trao đổi thông tin”[1]. Lúc này, khái niệm giao tiếp được khai thác với chức năng trao đổi, tiếp nhận thông tin giữa con người với con người trong xã hội. Trong nghiên cứu về giao tiếp, các nhà Tâm lý học Pháp P.Oathavut, G.Bivans, D.Giactson, đã coi “giao tiếp là một tổ hợp hành vi hay nói cách khác, giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên diễn ra giữa con người với nhau, quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi, hành vi ngôn ngữ, hành vi phi ngôn ngữ”[2] Ngay từ khi bé chào đời, thì giao tiếp đã là một kỹ năng quan trọng giúp bé tồn tại và phát triển, bé giao tiếp qua ánh mắt, qua các cử động của tay chân và đặc biệt là qua tiếng khóc... Một người mẹ có sự quan tâm và gần gũi con chắc chắn sẽ hiểu khi nào bé khóc vì đói, khi nào bé khóc vì đau, vì sợ và cả vì nhõng nhẽo nữa ! Khi biết nói ở lứa tuổi lên 3, thì bé bắt đầu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, đồng thời với khả năng bộc lộ cảm xúc thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ qua ánh mắt với những nét mặt và các dấu hiệu của cơ thể, nếu được đáp ứng đầy đủ sẽ giúp cho bé hình thành sự tự tin vào bản thân cũng như xây dựng những mối tương giao với mọi người xung quanh. Vì thế kỹ năng giao tiếp được xem là một năng lực cần thiết cho trẻ mở rộng quan hệ từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Đây là một kỹ năng phức tạp bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, vì thế ngoài năng lực nội tại của trẻ, phụ huynh cũng cần quan tâm giúp trẻ phát triển về kỹ năng giao tiếp bằng cách kích thích nhiều giác quan, mà chủ yếu là nghe - nhìn và đụng chạm. Ngôn ngữ được xem là công cụ chính trong việc giao tiếp, từ khi sinh ra cho đến khi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên thì trẻ giao tiếp bằng tiếng khóc, và cử chỉ, ánh mắt... “Khi trẻ bắt đầu nói và ngôn ngữ sẽ được phát triển rất nhanh từ khi trẻ trên 12 tháng, cho đến khi trẻ được 5 tuổi thì ngôn ngữ đã hoàn thiện, trẻ có đủ vốn từ (khoảng 2000 từ) để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày”[3]. Việc giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ thông qua việc trò chuyện với trẻ, cho trẻ chơi những trò chơi phát triển ngôn ngữ, đọc sách hay kể chuyện cho trẻ nghe là những hoạt động cần thiết để giúp trẻ đạt được sự giao tiếp tốt nhất.Tuy nhiên, không phải cứ nói nhiều, nói hoài với trẻ là tốt, mà nhiều khi một bà mẹ nói chuyện quá nhiều với con, nói những câu dài và trả lời luôn cho con khiến trẻ chỉ biết gật gù, lại là một trong những nguyên nhân gây ra sự thụ động hay chậm nói cho trẻ. Trăn trở với mục tiêu chung của giáo dục, là một giáo viên được phân công đứng lớp 5 tuổi, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường, biết giao tiếp một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ. Một tập thể trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận, vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Tôi nguyện góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhằm góp phần hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ. Và đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi lớp A1 tại trường mầm non Nga An”. 2. Mục đích nghiên cứu Hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Nga An nhằm giúp trẻ có thêm kiến thức về cách ứng xử trong giao tiếp với cô giáo, với bạn bè với người lớn và mọi người xung quanh, linh hoạt trong cách xử lý các tình huống hàng ngày của trẻ từ đó giáo dục hành vi và thói quen trong giao tiếp cho trẻ. 3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại Trường mầm non Nga An. 4. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết Phương pháp nghiên cứu tài liệu về các vấn đề có liên quan đến bậc học mầm non và những kiến thức bổ trợ cho việc nghiên cứu đề tài của mình. b. Phương pháp quan sát Quan sát các hoạt động của trẻ tại lớp Hoa Cúc trường mầm non Nga An năm học 2016 - 2017 c. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin Khảo sát điều tra thực tế và thu thập thông tin d. Thống kê và xử lý số liệu Thống kê số liệu và tính % để định lượng kết quả nghiên cứu từ đó rút ra những nhận xét khoa học về vấn đề giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Nga An. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận “Kỹ năng giao tiếp là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” [4] Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách trẻ. Phát triển về các mặt thể chất, tình cảm-xã hội, ngôn ngữ, nhận thức , giúp trẻ sẵn sàng đi học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là: - Giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, có khả năng thích ứng với thay đổi của điều kiện sống. - Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với mọi người xung quanh. - Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người khác, có khả năng giao tiếp tốt với mọi người. - Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : “Kỹ năng nhận thức về bản thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội, kỹ năng học tập, kỹ năng tương tác”[5]Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng kiểm soát cảm xúccác kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho trẻ. Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, Với vốn từ giao động từ 3500 đến 4500 từ, trẻ đã có thể dùng từ phù hợp với nội dung, hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp, đặc biệt là trẻ đã có khả năng nhận biết được những sắc thái biểu cảm của lời nói (vui, buồn, tức giận, ngạc nhiên, sợ hãi,). Trẻ đã có thể diễn đạt được những xúc cảm, nhu cầu, ý nghĩ và hiểu biết của mình qua lời nói, biết sử dụng lời nói để chỉ dẫn những vấn đề đơn giản cho người khác hiểu và ngược lại có thể hiểu những chỉ dẫn về những vấn đề đơn giản qua lời nói, hoặc cử chỉ hành động. Ở những trẻ được chú ý rèn luyện về mặt giao tiếp đã có thể sử dụng khá hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn từ (cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, giọng nói,). Hơn nữa, nếu được chú ý giáo dục, trẻ đã có thể thực hiện được những quy tắc giao tiếp thông thường như gặp người lớn, gặp thầy cô thì chào hỏi lễ phép, người lớn đưa cho thứ gì thì phải xin bằng hai tay, Mặc dù có thể trẻ chưa hiểu được sâu sắc ý nghĩa của những hành vi giao tiếp, song trẻ hoàn toàn có thể thực hiện được chuẩn về mặt hành vi trong quá trình giao tiếp nếu môi trường giao tiếp quanh trẻ chỉ chứa đựng những nét đẹp của văn hoá giao tiếp và trẻ nhận được sự quan tâm giáo dục thoả đáng của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Nếu được giáo dục đúng hướng, giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi còn có một số đặc điểm sau: Trẻ 5 – 6 tuổi dễ dàng thiết lập những mối quan hệ giao tiếp với những người xung quanh không phân biệt tuổi tác, địa vị xã hội, kinh tế. Có thể nói trẻ thiết lập quan hệ giao tiếp rất hồn nhiên, vô tư không để ý đến xuất thân của đối tượng giao tiếp. Tuy nhiên, trẻ đã bước đầu biết để ý đến sở thích, thói quen, tính cách của đối tượng giao tiếp nên trong những trường hợp đối tượng giao tiếp có biểu hiện ảnh hưởng tới sự an toàn của trẻ (như doạ nạt, trêu trọc,) thì trẻ sẽ không thích giao tiếp với đối tượng đó. Trong những tình huống nhất định (tình huống mà trẻ thích giao tiếp) trẻ dễ dàng thay đổi ý kiến, thái độ của mình để nhận được sự đồng tình của đối tượng giao tiếp - biểu hiện của tính thiện chí trong giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, trẻ 5 – 6 tuổi đã biết cảm thông với người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, biết nhường nhịn bạn chơi - đối tượng giao tiếp. Đặc biệt là xúc cảm, tình cảm của trẻ thường được biểu hiện một cách chân thật trong quá trình giao tiếp. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Thuận lợi Trong những năm qua, nhà trường luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền luôn quan tâm đến giáo dục đặc biệt là giáo dục mầm non. Bên cạnh đó còn được sự quan tâm của các cấp các ngành luôn kề vai, sát cánh ủng hộ nhà trường trong mọi lĩnh vực. Nhà trường cũng đã đầu tư mua sắm trang thiết bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ các loại đồ dùng, đồ chơi phục cho công tác dạy và học đạt hiệu quả, Các phòng học rộng, thoáng, môi trường phù hợp, có diện tích phù hợp để trẻ hoạt động nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ khi ở trường. Là một giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, có vốn hiểu biết tương đối để đáp ứng nhu cầu khám phá của trẻ. Luôn tâm huyết với nghề nghiệp, nhiệt tình, say mê trong công việc, có lòng yêu nghề, mến trẻ, không ngừng tìm tòi, học tập và nâng cao kiến thức, học hỏi kinh nghiệm của bạn bè đồng nghiệp, tiếp thu và ứng dụng các chuyên đề do Phòng Giáo dục tổ chức vào chương trình giáo dục Mầm non mới, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng. Trong những năm gần đây, đa số phụ huynh đã quan tâm đến việc phối hợp cùng nhà trường trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ. Tham gia nhiệt tình các phong trào chung của nhà trường. b. Khó khăn Bên cạnh những mặt thuận lợi nêu trên bản thân còn gặp phải rất nhiều những vấn đề khó khăn nhất định trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động học như sau: Một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động ít giao lưu trong các hoạt động dẫn đến việc luyện phát âm cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn. Về phía các bậc cha mẹ trẻ luôn nóng vội trong việc dạy con; Đa số các bậc phụ huynh đi làm kinh tế xa để con ở nhà với ông bà nên chưa có sự nghiêm khắc với trẻ, đôi khi nuông chiều quá thái để trẻ thường nhõng nhẽo chưa có tính tự lập. Do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cháu khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? Xuất phát từ những thực tế trên tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu tìm ra một số biện pháp để áp dụng trong năm học 2016 - 2017 này. Để có một kết quả tốt về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và để nắm bắt được kỹ năng giao tiếp của trẻ tôi thường xuyên theo dõi cách giao tiếp, ứng xử của trẻ trong các hoạt động hàng ngày, chú ý quan sát phát hiện những ưu khuyết điểm của từng trẻ trong việc giao tiếp ứng xử giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ tôi đã phát hiện ra nhiều điều ở trẻ nên đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng với tổng số 30 cháu trong lớp. Trong đó nữ: 13 cháu, nam: 17 cháu kết quả khảo sát như sau: * Khảo sát trẻ lần 1: Nội dung Tổng số trẻ Trẻ đạt Tỉ lệ % Trẻ Chưa đạt Tỉ lệ % Trẻ có kỹ năng trong giao tiếp, ứng xử với cô giáo, bạn bè và mọi người xung quanh. 30 17 56,6% 13 43,4% Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. 30 15 50% 15 50% Trẻ có thói quen lịch sự trong giao tiếp hàng ngày 30 20 66,6% 10 33,3% Trẻ có thói quen lịch sự, kết hợp với cử chỉ điệu bộ tốt trong giao tiếp hàng ngày 30 19 63,3% 11 36,7% 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Giải pháp 1: Định hướng môi trường giao tiếp cho trẻ Môi trường giao tiếp của trẻ trong trường mầm non là tổng hòa các mối quan hệ giữ cô với trẻ, trẻ với trẻ và trẻ với đô chơi. Xuất phát từ điều đó mà bản thân tôi đã tìm và lựa chọn ra những cách nhằm phát triẻn kỹ năng giao tiếp cho trẻ. * Môi trường giao tiếp giữa cô với trẻ. Trong môi trường sư phạm mầm non, giao tiếp sư phạm của người giáo viên mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển xúc cảm, phẩm chất và nhân cách cho trẻ. Bởi trong những năm đầu đời, trẻ luôn cần có một hình mẫu để noi gương. Mọi phẩm chất của trẻ đều được hình thành dần dần trong giao tiếp với người xung quanh. Do đó, đòi hỏi người giáo viên mầm non khi đứng lớp phải có cách giao tiếp và ứng xử một cách khéo léo, tinh tế và linh hoạt trước mọi hành động của trẻ. Các em trong độ tuổi này thường có cách cư xử dựa vào bản năng và thường chỉ hành động theo những gì bản thân muốn. Chính vì vậy, người giáo viên phải thông qua giao tiếp để hướng trẻ đến những suy nghĩ đúng đắn, dạy trẻ biết cách ứng xử cho phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Ví dụ: Một số cách ứng xử và giao tiếp với trẻ em mầm non mà bản thân tôi đã làm + Nói chuyện với trẻ trong quá trình dạy dỗ. Cần thay đổi ngữ điệu và giọng nói sao cho phù hợp với nội dung và hoàn cảnh khi giao tiếp. + Gọi tên trẻ và khuyến khích trẻ xưng tên cũng như gọi tên người khác khi giao tiếp. + Khuyến khích trẻ bắt chước phát âm những từ mới. Giúp trẻ mở rộng câu. + Làm mẫu những hành động khi giao tiếp kèm theo lời nói để trẻ học theo: chào, tạm biệt, đồng ý, cảm ơn, + Hướng dẫn cho trẻ biết cách dùng các câu hỏi và câu trả lời khi giao tiếp như Đâu? Cái gì? Con gì? Làm gì? Ai đây? Và kiên nhẫn đợi bé trả lời câu hỏi. * Môi trường giao tiếp giữa trẻ với trẻ. Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt, mỗi trẻ sống trong ,một gia đình khác nhau ngôn ngữ giao tiếp của chúng cũng khác nhau. Chính vì vậy tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ cùng nhau học tập và trò chuyện cùng nhau từ đó làm giàu vốn từ cho trẻ khi giao tiếp. Tôi cho trẻ giao lưu trò chuyện với nhau bằng các cách như: + Cùng trẻ chơi những trò chơi dân gian, đọc các bài thơ, bài đồn daonhằm tạo sự thân thiết giữa trẻ và trẻ. + Cùng trẻ đọc sách, xem tranh. Kết hợp với việc hỏi han và trò chuyện về các nhân vật trong sách, trong tranh, giúp trẻ bộc lộ cảm xúc bằng điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, + Tạo nhiều cơ hội cho trẻ học theo nhóm, cùng nhau thảo luận, cùng nhau làm chung một công việc cô giáo giao cho. * Môi trường giao tiếp giữa trẻ với đồ chơi. + Sử dụng các đồ dùng học tập, đồ chơi để làm phương tiện phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ: giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ (nét mặt, cử chỉ, các điệu bộ khi chơi,) + Sử dụng các chú rối để trẻ tự trò chuyện hay kể chuyện cho trẻ nghe. Tóm lại: Thông qua việc định hướng môi trường giao tiếp cho trẻ bản thân tôi đã vạch rõ và nhìn thấy cụ thể công việc của mình trong các bước tiếp theo Giải pháp 2: Giáo dục kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động học có chủ định. Thông qua giờ hoạt động có chủ định tôi thường sử dụng những câu hỏi đàm thoại cùng trẻ để phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ - Giáo dục thông qua hoạt động khám phá khoa học Lồng ghép tích hợp nội dung rèn kỹ năng giao tiếp vào hoạt động khám phá có nhiều ưu thế nhằm hình thành cho trẻ những thói quen thói quen văn minh trong giao tiếp, hành vi có văn hoá. Ví dụ: Qua giờ khám phá khoa học “ Ngôi nhà bé yêu?". Ở chủ đề Gia đình Tôi sử dụng thể đàm thoại: - Trong gia đình của cháu có những ai? - Con hãy kể về ngôi nhà của minh nào? - Cô có bức hình ảnh về gì đây? - Ai có nhận xét gì về hình ảnh này? Trong giờ học lúc đầu cô giáo luôn đưa ra rõ ràng những câu hỏi mẫu, câu trả lời mẫu cô giáo dục cháu biết yêu quý bản thân, biết học cách trả lời trọn câu, biết dùng các câu nói chuẩn. - Giáo dục thông qua hoạt động tạo hình + Đối với giờ học tạo hình: "Vẽ người thân trong gia đình". Cô có thể đàm thoại: + Gia đình cháu gồm có những ai? + Gia đình cháu có mấy người + Gia đình cháu thuộc gia đình nhỏ hay gia đình lớn? + Mọi người sống trong gia đình phải như thế nào với nhau? Từ đó giáo dục trẻ biết yêu thương, kính trọng đối với ông bà, cha mẹ, anh chị, biết nhường nhịn em bé, biết quan tâm chia sẽ những khó khăn và biết tôn trọng ý kiến của mọi thành viên trong gia đình - Giáo dục thông qua hoạt động giáo dục âm nhạc + Giờ học âm nhạc: Bài "Bông hoa Mừng Cô". Đàm thoại: Đối với cô giáo các con phải như thế nào? Khi tặng hoa cho cô, các con cầm hoa tặng bằng mấy tay? Phải nói những lời chúc mừng như thế nào? Thông qua đó giáo dục trẻ khi nhận hoặc trao vật gì với người lớn nên trao hoặc nhận phải bằng hai tay, khi trao quà các con phải có lời chúc mừng hoặc nhận quà phải biết nói lời cảm ơn, biết nhớ ơn cô giáo người đã dạy dỗ và chăm sóc các con nên người. - Giáo dục thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học Để việc dùng các câu chuyện có tác dụng phát triển tốt khả năng giao tiếp của trẻ mỗi người giáo viên phải thu hút được sự chú ý của trẻ bằng giọng kể, đọc sinh động, hấp dẫn, thể hiện được các giọng khác nhau của các nhân vật. trẻ sẽ thích thú hơn và muốn tham gia vào câu chuyện và thích đóng vai các nhân vật trong chuyện, nhắc lời thoại, vẽ tranh các nhân vật trong câu chuyện cô vừa kể, đọc. Ví dụ: Qua câu chuyện "Bác gấu đen và 2 chú thỏ" trẻ sẽ đóng được vai Thỏ nâu có giọng nói không nhẹ nhàng chuẩn mực với Gấu đen như vậy là không tốt và rất thích Thỏ trắng vì lòng tốt và những câu nói, câu an ủi, động viên của Thỏ trắng, từ đó trẻ sẽ yêu quý nhân vật Thỏ trắng hơn. Qua câu chuyện cô giáo dục cháu lòng nhân ái biết yêu thương và giúp đỡ nhau khi gặp hoạn nạn, hình thành cho trẻ lòng nhân ái, biết sử dụng những câu nói trọn vẹn để động viên an ủi mọi người xung quanh. Tuy nhiên khi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp vào hoạt động học giáo viên phải đảm bảo các yêu cầu: + Đảm bảo tính tự nhiên, hợp lý khách quan của tri thức môn học. + Đảm bảo tính trọn vẹn, hệ thống của nội dung hoạt động học tập. + Đảm bảo tính vừa sức của trẻ. Đặc biệt hệ thống câu hỏi phải gợi mở để trẻ khắc sâu tính cách nhân vật từ đó học tập các câu nói mẫu một cách trọn vẹn Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ. - Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các câu truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng giao tiếp ở trẻ. Khuyến khích trẻ nói lên sở thích, quan điểm của trẻ: Nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và những lựa chọn của mình, cố
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_nang_giao_tiep_cho_tre_mau.doc