SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12A6 và 10A9 – Trường THPT Đông Sơn 1

SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12A6 và 10A9 – Trường THPT Đông Sơn 1

Trong sự phát triển của một quốc gia, giáo dục chính là công cụ để phát triển chất lượng nguồn nhân lực con người. Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục trung học phổ thông đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và hình thành những phẩm chất của người học.

Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2015 của Bộ giáo dục và đào tạo nêu rõ: Giáo dục cấp THPT hiện hành ngoài mục tiêu củng cố và phát huy kết quả của giáo dục THCS, còn giúp học sinh “có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân” [1]. Chương trình giáo dục trung học phổ thông giúp học sinh: “ tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực của người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới”.[2]

 Việc giáo dục học sinh là công việc không đơn giản. Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trong trường học, người giáo viên gắn liền với hai nhiệm vụ: vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Học sinh đang ở độ tuổi trưởng thành và rất nhạy cảm. Bên cạnh những học sinh chăm ngoan, thì cũng có một số học sinh ngang bướng, ngỗ nghịch, không chấp hành nội quy học sinh.Những học sinh này được gọi là: Học sinh cá biệt.

Gần đây, các thông tiện thông tin báo chí, truyền hình đã đưa tin khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt. Vấn đề này đã trở thành mối lo ngại của xã hội, gia đình và nhà trường. Học sinh cá biệt hầu như trường nào cũng có. Học sinh cá biệt không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn cho sự phát triển của nhà trường. Xã hội ngày càng phát triển thì cùng với đó là sự du nhập nhiều yếu tố thiếu lành mạnh từ xã hội tác động đến các em. Sự buông lỏng quản lí của gia đình, sự đua đòi bạn bè . đã làm cho số lượng học sinh cá biệt có xu hướng gia tăng.

 

doc 19 trang thuychi01 5995
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12A6 và 10A9 – Trường THPT Đông Sơn 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài 
Trong sự phát triển của một quốc gia, giáo dục chính là công cụ để phát triển chất lượng nguồn nhân lực con người. Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục trung học phổ thông đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và hình thành những phẩm chất của người học. 
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2015 của Bộ giáo dục và đào tạo nêu rõ: Giáo dục cấp THPT hiện hành ngoài mục tiêu củng cố và phát huy kết quả của giáo dục THCS, còn giúp học sinh “có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân” [1]. Chương trình giáo dục trung học phổ thông giúp học sinh: “ tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực của người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới”.[2] 
 Việc giáo dục học sinh là công việc không đơn giản. Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trong trường học, người giáo viên gắn liền với hai nhiệm vụ: vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Học sinh đang ở độ tuổi trưởng thành và rất nhạy cảm. Bên cạnh những học sinh chăm ngoan, thì cũng có một số học sinh ngang bướng, ngỗ nghịch, không chấp hành nội quy học sinh...Những học sinh này được gọi là: Học sinh cá biệt.
Gần đây, các thông tiện thông tin báo chí, truyền hình đã đưa tin khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt. Vấn đề này đã trở thành mối lo ngại của xã hội, gia đình và nhà trường. Học sinh cá biệt hầu như trường nào cũng có. Học sinh cá biệt không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn cho sự phát triển của nhà trường. Xã hội ngày càng phát triển thì cùng với đó là sự du nhập nhiều yếu tố thiếu lành mạnh từ xã hội tác động đến các em. Sự buông lỏng quản lí của gia đình, sự đua đòi bạn bè ... đã làm cho số lượng học sinh cá biệt có xu hướng gia tăng. 
Vấn đề học sinh cá biệt ngày một gia tăng đặt ra nhiều câu hỏi: Làm thế nào để giảm thiểu học sinh cá biệt? Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt? Làm thế nào để các em hòa nhập với tập thể? Làm thế nào để hình thành ở các em những năng lực và phẩm chất của một công dân tốt?.. Vấn đề giáo dục học sinh cá biệt nhằm giúp các em trở thành công dân có ích cho xa hội đã và đang trở thành một yêu cầu cấp thiết của xã hội đặt ra cho ngành giáo dục nói chung và của người giáo viên nói riêng. 
Là một giáo viên vừa trực tiếp giảng dạy, vừa làm công tác chủ nhiệm, bản thân tôi cũng gặp phải một số học sinh cá biệt. Từ thực tế làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, qua học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên các tài liệu, trên truyền hình , bản thân tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm trong công tác giáo dục học sinh cá biệt. Với đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12A6 và 10A9 – trường THPT Đông Sơn 1” , tôi mong muốn góp thêm một tiếng nói góp phần ngăn chặn, giảm thiểu số lượng học sinh cá biệt, nâng cao chất lượng nguồn lao động tương lai cho đất nước trước hết về tư cách đạo đức.
1. 2. Mục đích nghiên cứu 
- Tìm hiểu các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hành vi sai lệch của học sinh cá biệt, thiếu động cơ học tập. Qua đó, giúp các em định hướng được hành vi và có động cơ học tập, rèn luyện tốt hơn.
- Tìm ra các phương pháp, kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt để các em trở thàng người có ích cho gia đình và xã hội.
- Phương pháp đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh cá biệt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Lớp A6(niên khóa 2013 – 2016) và lớp 10A9(năm học 2016 – 2017) trường THPT Đông Sơn 1
- Những học sinh thuộc diện cá biệt:
Lớp A6(niên khóa 2013 – 2016):
1. Em Nguyễn Đình Dũng
2. Em Trần Văn Trường 
3. Em Lê Văn Hải
4. Em Lê Viết Anh
5. Phạm Văn Dũng
 Lớp 10A9 (Năm học 2016-2017) :
 1. Em Nguyễn Đức Mạnh
 2. Em Nguyễn Tiến Mạnh 
 3. Em Lê Thị Hồng Chinh 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Nghiên cứu hồ sơ: Bước làm đầu tiên để tìm hiểu nét cơ bản nhất của học sinh cá biệt.
+ Trò chuyện, trao đổi trực tiếp học sinh cá biệt, bạn bè, gia đình, thầy cô giáo.
+ Tham khảo ý kiến đồng nghiệp, những người có kinh nghiệm.....
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, quan sát thường xuyên, toàn diện các biểu hiện, hành vi của học sinh cá biệt.
- Phương pháp ghi chép, thống kê xử lí số liệu, đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh cá biệt.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Quan điểm giáo dục hiện đại đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ “dạy người” song song với mục tiêu “dạy chữ”. Hiện nay nhiều trường luôn chạy đua theo thành tích học tập mà quên đi nhiệm vụ cao cả của nghề dạy học là giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh, từng bước hoàn thiện, từ cái chưa có thành cái có, giáo dục, cảm hóa học sinh hư hỏng, nghịch ngợm thành học sinh ngoan. Thực trạng học sinh cá biệt đang ngày một gia tăng đang gióng lên hồi chuông báo động về sự xuống cấp lí tưởng, đạo đức, lối sống trong thanh thiếu niên, đòi hỏi sự quan tâm, vào cuộc của toàn xã hội.
 Trước hết, chúng ta cần hiểu đúng khái niệm học sinh cá biệt.  Học sinh cá biệt là thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo chỉ :“ Những học sinh có những thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học sinh, hoặc thiếu văn hoá, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, đồng thời không có động cơ học nên kết quả học tập yếu, kém... được lặp lại thường xuyên và trở thành hệ thống đuợc coi là cá biệt”[3 ]. 
Biểu hiện của học sinh cá biệt cũng vô cùng phức tạp: Cá biệt là do vi phạm nội quy của Nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn Cá biệt là do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, lừa dối bố mẹ, thầy cô.
Cá biệt là do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô giáo, cha mẹ, hay nói tục chửi bậy. Cá biệt là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, trấn lột, cờ bạcCá biệt là do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ (nhóm học sinh cá biệt này đang có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện nay).
Học sinh cá biệt thường rất nghịch ngợm, hiếu động, không làm chủ được bản thân, dễ  bị lôi cuốn , bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, những tác động tiêu cực từ bên ngoài xã hội , dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có nguy cơ phạm tội là nỗi day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội . 
Vì vậy, chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục học sinh cá biệt có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với xã hội: Thành công trong giáo dục học sinh cá biệt sẽ góp phần vào giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, cung cấp cho xã hội những công dân tốt. Đối với gia đình: Đem lại niềm hạnh phúc cho phụ huynh, giúp họ tránh được nỗi bất hạnh lớn nhất là con cái hư hỏng. Đối với tập thể lớp: đảm bảo cho lớp ổn định, trật tự, nề nếp. Để làm được điều này đối với giáo viên chủ nhiệm là một nhiệm vụ không dễ dàng. Công tác này đòi hỏi người thầy không chỉ có tâm, mà còn phải khéo léo, tinh tế, nghệ thuật ứng xử phù hợp, biện pháp, hình thức giáo dục thích hợp, mang lại hiệu quả cao nhất. 
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
2.2.1. Thuận lợi
Trường THPT Đông Sơn 1 là ngôi trường có bề dày truyền thống hơn 50 năm. Hằng năm, công tác giảng dạy và giáo dục của nhà trường đều đạt được những thành tích đáng mừng. Bên cạnh mục tiêu “dạy chữ”, thì việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường. Hạn chế được những đối tượng học sinh yếu về mặt đạo đức là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Vì vậy, công tác này luôn được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường .
Địa bàn sinh sống của đa số học sinh là ở gần trường, gia đình thuần nông là chủ yếu. Tuy cuộc sông còn nhiều khó khăn, nhưng nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của các em.
 Công tác trong ngành giáo dục 23 năm, bản thân tôi đã từng trải qua công tác chủ nhiệm hơn 20 năm, tôi nhận thấy rằng không có học sinh nào là cá biệt vĩnh viễn. Nếu gần gũi các em, ta sẽ thấy rằng các em hoàn toàn có thể thay đổi theo chiều hướng tích cực. Thậm chí, có thể là những học sinh rất thông minh và một khi giáo viên biết lắng nghe, học sinh được vị tha và yêu thương, các em sẽ trở thành những học sinh tốt.
2.2.2. Khó khăn
 Lớp A6 (niên khóa 2013-2016) và lớp 10A9 ( năm học 2016-2017) do tôi làm chủ nhiệm là một lớp có chất lượng đầu vào ở mức độ trung bình.
Bên cạnh nhiều học sinh trong lớp ngoan, có ý thức học tập thì có khá nhiều em là học sinh cá biệt, lưu ban. Biểu hiện của học sinh cá biệt thường rất phức tạp. Mỗi học sinh cá biệt có những hành vi, biểu hiện không dễ nắm bắt. Vì vậy, việc tìm giải pháp thích hợp với từng em để giáo dục cũng không hề đơn giản.
 Nhiều em học sinh là con của những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm xa, các em phải ở với ông bà, hoặc anh em họ hàng. Không được bố mẹ trực tiếp nuôi dạy và giáo dục, lại chịu trực tiếp những tác động tiêu cực từ xã hội bên ngoài nên nhiều em dễ bị bạn bè lôi kéo và sa ngã. Các em hay bỏ học đi chơi, tụ tập bạn bè, la cà quán xá, gây gổ đánh nhau. Một số em còn vô lễ với giáo viên...
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến hành vi của học sinh cá biệt? 
Thứ nhất phải kể đến xuất phát từ gia đình. Gia đình thiếu sự quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng các em; những éo le trong cuộc sống gia đình cũng ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.
Thứ hai là từ xã hội: Sự phát triển của công nghệ thông tin, mặt trái của cơ chế thị trường đã đem đến nhiều cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực đến học sinh.
Thứ ba, nhà trường chưa tạo được nhiều sân chơi, chưa tổ chức được đa dạng các hoạt động ngoại khóa để các em tham gia mà chủ yếu là chú trọng giáo dục tri thức.
Thứ tư, bản thân học sinh lại ở giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi, từ tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình nhưng hiểu biết, chưa hoàn thiện, đôi khi do bản năng hoặc đua đòi. Khi đạo đức yếu kém thì học lực cũng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả là các em bị hổng kiến thức căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp các em mặc cảm đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học, cuối cùng là nảy sinh tâm lý bỏ học.
Thứ năm, một số em có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống, chán nản, chưa có mục đích học tập rõ ràng, chưa nhận thức được trách nhiệm, bổn phận của bản thân.
Những yếu tố trên tạo nên những khó khăn không nhỏ trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt.
2.3. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt hiệu quả
Trong quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm nên tôi đã gặp một số học sinh cá biệt. Hơn bao giờ hết, giáo dục học sinh cá biệt đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, phải kiên trì, phải thực sự có tấm lòng bao dung, yêu thương và biết cảm thông. Trong quá trình làm công tác giáo dục học sinh cá biệt, tôi luôn đảm bảo sự mềm dẻo, linh hoạt, giữa nghiêm khắc và mềm mỏng, giữa nguyên tắc và linh động trong nguyên tắc. Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và sử dụng một số phương pháp, kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt và thấy có hiệu quả nhất định. Sau đây tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm mang lại thành công cho tôi trong việc giáo dục các học sinh cá biệt.
2.3.1. Nhanh chóng nắm bắt thông tin và kịp thời tìm hiểu nguyên nhân các biểu hiện của học sinh cá biệt
Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành cá biệt, đó là hậu quả của các vết thương tâm lý mà do vô tình người lớn gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi trường gia đình như: bố mẹ bỏ nhau, bố mẹ hay uống rượu, cãi vã, đánh đập... Bên cạnh đó, cũng có thể do gia đình khó khăn, do bố mẹ đi làm ăn xa hoặc quá chú tâm vào việc kiếm tiền mà không quan tâm đến sự phát triển của con cái để trẻ bị lôi kéo bởi những kẻ xấu, lông bông Nắm rõ hoàn cảnh gia đình của từng học sinh, nhất là học sinh cá biệt giúp chúng ta nhanh chóng tìm ra giải pháp có hiệu quả hơn. Việc nắm bắt thông tin và kịp thời tìm hiểu nguyên nhân các biểu hiện của học sinh cá biệt được tôi thu thập qua học sinh trong lớp, nhất là những học sinh gần nhà, cán sự lớp.
Bên cạnh đó, giáo viên bộ môn đóng một vai trò cực kì quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh. Việc nắm bắt thông tin kịp thời từ giáo viên bộ môn là vô cùng cần thiết. Khi học sinh có các biểu hiện cá biệt, tôi trực tiếp gặp giáo viên bộ môn để trao đổi, tìm hiểu.
Ngoài ra, tôi dành thời gian nhất định theo dõi mạng xã hội mà học sinh sử
dụng. Có một thức tế là học sinh cá biệt rất thích mạng xã hội. Các em xem đó cũng chính là nơi để thể hiện mình qua những trạng thái được đăng và chia sẻ công khai. Đôi khi mầm mống của những mâu thuẫn, những kế hoạch hay dự định “nổi loạn” được thông báo mà không hề giấu giếm. Những thông tin này giúp chúng ta có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành động sai trái, tránh được những hậu quả đáng tiếc. 
Từ những thông tin thu thập được, tôi ghi vào sổ tay chủ nhiệm của mình hoàn cảnh và thường xuyên cập nhật các biểu hiện của từng em. Nắm vững đặc điểm này, tôi có các biện pháp phù hợp để giáo dục đối với từng học sinh.
Biểu hiện cụ thể và hoàn cảnh của từng học sinh được thống kê như sau:
STT
Họ và tên
Biểu hiện cá biệt
Hoàn cảnh
1
Nguyễn Đình Dũng
(Lớp A6 – niên khóa 2013 - 2016)
Hay bỏ học, xin tiền đóng góp rồi chi dùng vào các mục đích riêng, cắm đồ, thậm chí mượn đồ của bạn để cắm
Bố mẹ đều bận đi làm, học lực yếu.
2
Trần Văn Trường
(Lớp A6 – niên khóa 2013 - 2016)
Hay bỏ học, ham mê chơi điện tử
Học sinh lưu ban, bố mẹ ít có thời gian quan tâm, nhà xa, học lực yếu.
3
Nguyễn Viết Anh
(Lớp A6 – niên khóa 2013 - 2016)
Thường xuyên bỏ học, ham mê chơi điện tử
Học lực yếu.
4
Lê Văn Hải
(Lớp A6 – niên khóa 2013 - 2016)
Thường xuyên bỏ học, nhất là các buổi chiều, mê chơi điện tử
Ở với bà nội đã cao tuổi, bố mẹ đi làm xa nên thiếu sự sát sao của bố mẹ.
5
Phạm Văn Dũng
(Lớp A6 – niên khóa 2013 - 2016)
Thường xuyên bỏ học, mê chơi điện tử, liên tục bị ghi vào sổ đầu bài
Ở với bà ngoại đã cao tuổi, sống thiếu bố từ nhỏ, mẹ đi làm xa .
6
Nguyễn Đức Mạnh
Lớp 10A9 
(năm học 2016-2017)
Hay bỏ học, không chịu học bài, thường xuyên bị ghi vào sổ đầu bài.
Gia đình có điều kiện , nhưng được nuông chiều.
7
Nguyễn Tiến Mạnh
Lớp 10A9 
(năm học 2016-2017)
Hay bỏ học, nói chuyện riêng, không chịu học bài.
Bố mẹ li thân, mẹ đi làm xa.
8
Lê Thị Hồng Chinh
Lớp 10A9 
(năm học 2016-2017)
Không chú ý học, hay sử dụng điện thoại, trang điểm lòe loẹt, yêu sớm ...
Bố mẹ ít quan tâm ...
2.3.2. Xây dựng quan hệ tin cậy, tôn trọng, thân thiện vớí học sinh cá biệt. Xây dựng một tập thể lớp biết đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.
Xây dựng môi trường lớp học thân thiện nhằm đáp úng các nhu cầu được yêu thương, đuợc tôn trọng và có giá trị của từng thành viên trong tập thể lớp, đặc biệt là đối với những học sinh chán nản, chậm tiến. Bời vì môi trường thân thiện chứa đựng sự cảm thông, chia sẻ, hợp tác, yêu thương, tôn trọng, được thừa nhận, không phân biệt đổi xử với tất cả học sinh thuộc các thành phần xã hội khác nhau. Giúp học sinh nhận thấy mình có giá trị, mình có khả năng, mọi người yêu quý, tôn trọng và tin tưởng mình sẽ thay đổi. Cuộc sống và tương lai của bản thân, của gia đình đang rất cần sự cố gắng vầ thay đổi của chính các em.
 Khi tập thể lớp có tinh thần đoàn kết cao, có ý thức xây dựng , nề nếp tốt sẽ có vai trò tích cực trong giáo dục học sinh cá biệt. Bên cạnh việc lựa chọn cán sự lớp, đặc biệt là lớp trưởng - cánh tay đắc lực của mình thì tôi cũng quan tâm đến việc sắp xếp chỗ ngồi . Tôi luôn sắp xếp cho một cán sự lớp ngồi cạnh và chịu trách nhiệm kèm cặp học sinh cá biệt. Ví dụ: Tôi xếp em Nguyễn Đức Mạnh ngồi cạnh lớp phó học tập là Trần Thị Minh Châu vì Châu học giỏi, có khả năng thuyết phục người khác; Tôi xếp em Lê Thị Hồng Chinh ngồi cạnh Nguyễn Văn Toàn vì Toàn điềm đạm, biết lắng nghe, chia sẻ ; Phạm Văn Dũng ngồi cạnh Nguyễn Trọng Hải –lớp trưởng – vì 2 em từng là bạn học cấp 2, lại gần nhà nhau 
 Thường lứa tuổi HọC SINH dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có tính tập thể, tính giáo dục cao. Do đó , việc phân công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở thích, uớc mơ ... sinh hoạt, học tập với học sinh cá biệt dần dần lôi kéo các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là học sinh hư để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững mạnh .
Mặt khác, thông qua nhóm bạn tốt, giáo viên chủ nhiệm giao cho học sinh cá biệt thực hiện một số công việc, tạo những điều kiện để những HọC SINH này hoàn thành và động viên khích lệ các em, để các em xóa những tự ti, mặc cảm là học sinh cá biệt để hòa mình với bạn bè. Ngoài ra , tôi vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ những học sinh này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như gia đình mình, tạo điều kiện cho các em cùng tham gia học tập với con em mình để tách dần ra khỏi nhóm bạn chưa ngoan. 
2.3.3. Luôn sát sao, gần gũi, quan tâm và yêu thương với học sinh cá biệt 
Với các học sinh cá biệt, việc áp dụng cứng nhắc các quy chế, quy định chỉ mang lại kết quả ngược lại. Do đó, về giải pháp, trước hết vẫn phải là tình cảm yêu thương học sinh thực sự, cố gắng giúp các em vượt qua những biến cố, vấn đề xảy ra trong quá trình sống, thuyết phục học sinh băng lời lẽ có lý, có tình, bằng tình cảm và khen, chê đúng lúc; tìm cách tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh thông qua trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt.
 Tôi gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình. Thái độ phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, có tình, mức độ nguy hại của khuyết điểm, thức tỉnh các em bằng những câu chuyện đạo đức để cảm phục.
Tôi luôn dành thời gian để nói chuyện riêng với mỗi học sinh cá biệt có khi trực tiếp, cũng có khi qua điện thoại, bằng tin nhắn. Đây là một trong những biện pháp đặc biệt hiệu quả để được các em chia sẻ, đưa ra lời khuyên mà các em sẵn sàng tiếp thu. Qua đó, để hiểu các em hơn, để các em có cảm giác gần gũi. Thái độ trò chuyện chân thành, xem các em như em, như con mình đã giúp tôi đưa các em ra khỏi thế giới ảo hoặc những buổi lang thang lêu lổng, các em biết lắng nghe, trở nên hòa đồng hơn 
Muốn thay đổi hành vi của học sinh cá biệt một cách hiệu quả, giáo viên cần có sự hợp tác của học sinh. Do đó, chủ động tiếp xúc với các em để nắm bắt về điều kiện và hoàn cảnh, tâm tư, sức khỏe... của học sinh; động viên, an ủi giúp cho các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc ốm đau, bệnh tật cố gắng yên tâm học tập và biết vượt khó, vươn lên. 
 Tôi sắp xếp thời gian cùng cán bộ lớp tới thăm gia đình các học sinh cá biệt. Với những học sinh khó khăn về kinh tế , tôi cố gắng huy động sự ủng hộ từ nhiều phía như: Đề xuất lên Hội chữ thập đỏ nhà trường xin cứu trợ thường xuyên (hoặc cứu trợ đột xuất cho các em) , quyên góp “ Tết vì bạn nghèo” mỗi dịp Tết đến, xuân về...Tôi cũng chia sẽ với phụ huynh về tâm lí lứa tuổi của các em để phụ huynh gần các em hơn.
2.3.4. Tạo điều kiện để các em phát huy sở trường, đam mê, đồng thời khích lệ, động viên, khen thưởng kịp thời.
Các em học sinh cá biệt tuy học lực yếu nhưng bù lại lại có những năng khiếu đặc biệt như văn nghệ, thể dục, thể thao, vi tính, Những khả năng này, nhà trường có thể phát huy để các em có thể góp sức vào phong trào hoạt động của nhà trường và từ đó có thể định hướng 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_o_lop_12a6_v.doc