SKKN Một số biện pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh lớp 7 trường trung học cơ sở nga văn tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ đọc - Hiểu văn bản
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn nói riêng hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy học. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [1]. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Từ lâu, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ dạy - học văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy tác phẩm văn học tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, người giáo viên còn cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo và phát huy năng lực của học sinh. Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số kinh nghiệm giảng dạy nhằm giúp học sinh THCS tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ đọc - hiểu văn bản.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY NHẰM GIÚP HỌC SINH LỚP 7 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ NGA VĂN TIẾP NHẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC MỘT CÁCH HIỆU QUẢ TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Người thực hiện: Mai Xuân Hải Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác:Trường THCS Nga Văn SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Ngữ văn THANH HÓA NĂM 2018 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn nói riêng hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy học. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [1]. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn. Từ lâu, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ dạy - học văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy tác phẩm văn học tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, người giáo viên còn cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo và phát huy năng lực của học sinh. Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số kinh nghiệm giảng dạy nhằm giúp học sinh THCS tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ đọc - hiểu văn bản. 1.2. Mục đích nghiên cứu Đầu tiên, nghiên cứu đề tài để tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng trong giờ dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường. Bên cạnh đó, nhằm xác định các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, đề tài rút ra kết luận về các giải pháp nhằm giúp học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả trong tiết học đọc - hiểu văn bản, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học, phù hợp với mục tiêu dạy học là đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học. Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập, giúp học sinh phát huy được những năng lực sẵn có. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt, hình thành nhân cách cho các em trong tương lai. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng chủ yếu mà sáng kiến kinh nghiệm nói đến là một số biện pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh lớp 7A trường trung học cơ sở Nga văn tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả trong giờ đọc - hiểu văn bản. - Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn7-THCS. Qua khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh lớp 7A trong năm học 2016 - 2017 ở bộ môn Ngữ văn như sau: Kết quả khảo sát Sĩ số GIỎI KHÁ TB YẾU, KÉM SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) Kết quả khảo sát đầu năm 30 01 3.3 4 13.3 24 80.1 01 3.3 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1.4.1.Phương pháp nghiên cứu lý luận Thu thập những thông tin lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong dạy học ở Trường Trung học cơ sở qua tài liệu; những kiến thức về tâm lí dạy học, tài liệu bồi dưỡng giáo dục thường xuyên 1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Quan sát kết quả đạt được từ hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh thông qua các băng đĩa dạy mẫu. - Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với đồng nghiệp, học sinh về hiệu quả của các phương pháp đổi mới dạy học phân môn tiếng Việt trong dạy học Ngữ văn. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm + Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết về ứng dụng các phương pháp dạy học trực quan, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học. + Tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong trường, trường bạn, các bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung nghiên cứu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Nghị quyết TƯ 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ "đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học bậc học" nghị quyết TƯ 2 khóa VII (12/1996) nhận định: “phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học"[1]. Trong văn kiện Đại hội Đảng VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam có chỉ rõ phương hướng đổi mới của ngành Giáo dục - Đào tạo, đó là: "Tập trung nâng cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần thiết đối với học sinh tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của học sinh”[1]. Để đạt được điều đó, một trong những phương pháp quan trọng là phải tạo khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học cho học sinh. Nghiên cứu về khả năng tiếp nhận vấn đề, các nhà giáo dục học cho rằng, đây là khả năng của cá nhân được biểu hiện trước hết ở kết quả của sự lĩnh hội các tri thức mới trong quá trình học tập và sáng tạo. Trong bất cứ một công việc gì, nếu có khả năng tiếp nhận, lĩnh hội, con người sẽ đạt được hiệu quả cao, từ đó, làm nảy sinh năng lực hành động và biết hành động một cách sáng tạo. Đồng thời cũng bộc lộ được những năng lực của bản thân trong quá trình hoạt động. Việc giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả trong giờ dạy Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà trường nói chung và của từng giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người học nếu người dạy tạo được thói quen tiếp nhận một cách tích cực tự thân nơi người học. Người học văn cần phải có khả năng cách tiếp nhận văn bản một cách chủ động, toàn diện cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, hình ảnh, vần điệu...Cái khó của người dạy là làm thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học. Trong nhà trường THCS Nga văn, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi nên đối tượng học sinh thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để cảm thụ văn học, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu văn, chưa có cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả...Chính vì vậy, học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là phải tạo được sự hứng thú, khơi dậy được khả năng tiếp nhận, phải khiến cho học sinh biết biết tiếp nhận văn bản bằng cảm xúc chân thành, biết cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học bằng cả tâm hồn và trái tim; biết rung động, biết yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng. Biết mở ra cánh cửa tâm hồn từ lâu bị khoá chặt bằng những sinh hoạt đời thường để thưởng thức cái đẹp của văn chương. Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm, thúc đẩy tư duy của học sinh, mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc, những khó khăn trong việc tìm hiểu, phân tích... nhiều khi đã khiến cho người giáo viên ít chú trọng đến những lời giảng bình say sưa trong giờ đọc hiểu văn bản, từ đó, làm cho giờ đọc hiểu văn bản dễ bị sa vào nhàm chán, khô khan. Vậy làm sao để học sinh có thể vừa được làm quen với những câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho một đề tài thảo luận, vừa có quyền nêu những nhận xét, những cảm nhận cá nhân về đề tài, về nhân vật, về tác giả, vừa được cọ xát tư duy mà vẫn kích thích được cảm xúc, kích thích được những khả năng, năng lực vốn có của các em trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học? Đó là câu hỏi mà người giáo viên dạy ngữ văn cần phải giải mã được. 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Về phía giáo viên Đa số giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng năm các thầy cô được tập huấn về phương pháp dạy học, thảo luận ưu - nhược điểm của các phương pháp, được dự các chuyên đề, chủ đề để càng ngày càng đáp ứng tốt hơn mục tiêu của việc đổi mới, thực hiện đổi mới có hiệu quả hơn. Trong giảng dạy, người thầy đã phát huy được tính cực chủ động trong việc dạy học, nhường việc chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức cho người học. Học sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn, được trao đổi thảo luận nhiều hơn. Với tinh thần đổi mới, giờ Ngữ văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi, khuyến khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, giáo viên cũng đã phân biệt được phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn. Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang (của ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn) và Tích hợp dọc (giữa các bài, các lớp trong cùng một phân môn) phát huy tính tích cực, tư duy và năng lực của học sinh. Bên cạnh đó là việc tích hợp vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội một cách phù hợp trong từng tiết dạy. Việc tích hợp và lồng ghép với liên hệ thực tế để giáo dục học sinh đã đem lại cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương pháp dạy - học mới đang được tiếp cận một cách tích cực. Trong giờ đọc hiểu văn bản, người thầy đã dành nhiều hơn cho việc học sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh dạn phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết cho học sinh. Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống như: Nói - Viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, cảm thụ văn, biết sáng tác thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn...Chính những chuyển biến này đã giúp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi mới trong phương pháp dạy - học Ngữ văn. Tuy nhiên có một số đồng chí vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ, không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này đứng trước nhiều vấn đề mới các em sẽ bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không có đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn, máy móc lên lớp. Nó làm giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học sinh. Giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng các giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân. 2.2.2. Về phía học sinh Các em học sinh phần nào ý thức được tầm quan trọng của môn Ngữ văn và coi đây là môn học công cụ trong quá trình học tập. Các em luôn cố gắng học tập tốt và nhiều em thực sự đã có sự say mê tìm tòi, sáng tạo. Các giờ học nhìn chung đã có một không khí mới, hào hứng, sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức là được chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học với tư cách là một chủ thể tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không khí tiết học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận. Điều đó đã giảm thái độ đối phó, miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình. Tuy nhiên, đi sâu tìm hiểu việc học của học sinh, chúng tôi nhận thấy, nhiều học sinh vẫn có phần đối phó. Kiến thức về văn học của các em còn nghèo nàn, phương pháp học tập còn lúng túng, nhiều học sinh còn hổng kiến thức, nhiều học sinh tiếp nhận văn bản một cách thụ động. Đặc biệt, nhiều học sinh còn coi việc học văn như một cực hình bởi các em chỉ quen với lối tư duy nhanh, gọn trong thực tế mà không thích sự dài dòng với lối tư duy tưởng tượng, vốn là một đặc trưng quan trọng của môn ngữ văn. Với vốn từ ngữ ít ỏi, nhiều học sinh dùng từ ngữ trong giao tiếp vẫn còn thiếu chính xác, tùy tiện. Đặc biệt, các bài Tập làm văn của các em thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt còn vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Nghĩa là, các em chưa có tính sáng tạo trong việc tiếp nhận và tạo lập văn bản theo yêu cầu. Tiến hành điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau chúng tôi thấy rõ thực trạng học tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn: + Em có thích học Văn không? + Em có thấy môn Ngữ văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau này của mình không? Kết quả điều tra rất đáng suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ văn trăn trở, suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn Văn và năng lực dạy Ngữ văn của mình. Chất lượng, không khí học tập trong các giờ dạy đọc hiểu văn bản ở nhiều tiết dạy học vẫn còn tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn do các nguyên nhân sau: - Người thầy chưa có năng khiếu truyền cảm hứng cho học sinh, chưa tìm ra được những hướng đi mới để dẫn đắt học sinh chiếm lĩnh tác phẩm văn học. Trong một số tiết dạy bình thường giáo viên lại quay về phương pháp cũ, tức là cung cấp cho học sinh từng kiến thức, thậm chí đọc chép cho học sinh. Điều này cũng do nguyên nhân giáo viên chưa tin vào năng lực thi công của mình, chưa dám mạnh dạn đổi mới trong tiến trình lên lớp. Trong thao tác ghi bảng, giáo viên thường ghi câu chữ, hình ảnh, biện pháp tu từ sau đó đánh mũi tên sang ngang ghi tác dụng, ý nghĩa một cách máy móc giản đơn. Điều đó vừa làm mất đi tính toàn vẹn của tác phẩm, vừa gây khó khăn cho học sinh khi học bài ở nhà. - Thao tác vào bài (giới thiệu bài) của giáo viên thường là nhắc lại tên bài học trước, nêu tên bài học hôm nay. Kiểu dẫn dắt đơn điệu này không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. - Thao tác tìm hiểu bài còn hạn chế là: Câu hỏi quá dễ hoặc quá khó, diễn giảng vụn vặt sau câu trả lời của học sinh, bỏ qua chỗ diễn giảng cao trào để bổ sung, nâng cao, mở rộng cách hiểu cho học sinh. - Đa số học sinh, cha mẹ học sinh đầu tư vào các môn khoa học tự nhiên và ngoại ngữ, xem nhẹ môn Ngữ văn. Điều này dễ nhận thấy ở việc học sinh ồ ạt đăng kí học bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn hoặc ở việc tìm thầy phụ đạo thêm và ở việc học sinh học bài ở nhà. - Cơ sở vật chất, tài liệu minh họa, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung kiến thức học tập môn Văn nghèo nàn, đơn điệu, chủ yếu là một số tranh ảnh và sách tham khảo. Từ đó dẫn đến việc giáo viên dạy chay còn học sinh thì lúng túng không biết chọn lựa sách nào để đọc cho phù hợp. Những hoạt động ngoại khoá để khắc sâu, mở rộng kiến thức, gây hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh rất ít được tổ chức vì tốn kém, mất nhiều thời gian và công sức. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên Trước hết, giáo viên phải chuẩn bị nhiều phương diện cho một giờ lên lớp: Nắm vững bài dạy, xác định kiến thức trọng tâm. Hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Tìm hiểu thực tế lớp dạy cụ thể trong từng tiết học. Giáo viên phải chú ý tạo tâm thế [2]. học tập tốt cho học sinh, giúp các em nhận thức được lợi ích của bộ môn cũng như tạo sự phát triển trí tuệ, tư duy và tâm hồn, tình cảm cho người học. Tác dụng này phải được giáo viên nhấn mạnh trong những tình huống phù hợp. Khi chú ý đến điều này giáo viên sẽ khắc phục được thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thụ động của học sinh; dần dần học sinh sẽ tích cực chủ động hơn trong việc chuẩn bị bài, lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức Ngữ văn trong học tập và đời sống. Như vậy, việc chuẩn bị tâm thế [2] trong giờ học Ngữ văn rất quan trọng đối với việc tạo hứng thú cho học sinh để các em có thể tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả. Nhưng khơi gợi hứng thú cho học sinh có thành công hay không chủ yếu phụ thuộc vào các biện pháp giáo viên thực hiện lên lớp, trong giờ dạy cụ thể. Muốn vậy, giáo viên phải phối hợp nhiều biện pháp để tạo nên những giờ học sinh động lôi cuốn học sinh. Cụ thể như: + Quy trình dạy học hợp lí với sự chủ động bình tĩnh, một giờ dạy lôi cuốn học sinh trước hết ở nghệ thuật dẫn dắt, hướng dẫn học sinh. Trên cơ sở nắm vững kiến thức trọng tâm của bài học, giáo viên chú ư đến tính vừa sức, điều tiết thích hợp để tránh nhàm chán vì sự lặp lại hoặc chán nản vì kiến thức khó. Đối với những bài mà các em đã học giáo viên phải huy động và củng cố kiến thức cũ làm cơ sở hình thành kiến thức mới. + Đối với những kiến thức hoàn toàn mới, giáo viên hướng dẫn học sinh từ dễ đến khó, mạnh dạn tinh giản kiến thức[2], tránh ôm đồm quá tải làm học sinh không hứng thú vì cảm thấy bài dài và khó. + Tăng cường giao tiếp trong giờ học là một biện pháp cơ bản để khơi gợi hứng thú học tập. Thông qua giao tiếp học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức, giờ học trở nên sinh động hơn. Để đạt điều này, giáo viên phải tạo những tình huống có vấn đề để gợi mở suy nghĩ của học sinh, học sinh sẽ cố gắng khám phá tìm hiểu vấn đề. Từ đó học sinh tranh luận, thảo luận bảo vệ ý kiến của mình khi có những ý kiến trái ngược nhau. Lưu ý là phải tạo điều kiện để các em lựa chọn cách hiểu và hướng dẫn đến ý kiến đúng một cách kịp thời, phù hợp. Hoạt động giao tiếp trong giờ học được thực hiện từ khâu tìm hiểu bài, hình thành kiến thức mới và luyện tập thực hành. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và trò. Tổ chức trò chơi cũng chính là hoạt động giao tiếp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh, giúp cho học sinh có được sự tiếp nhận văn bản hiệu quả. Có thể tổ chức trong tiết dạy với hình thức thi giữa các nhóm nhỏ với nhau để làm bài tập củng cố kiến thức, cũng có thể củng cố kiến thức bằng các hoạt động “học mà chơi, chơi mà học”. Hoặc kết hợp với những đề tài cụ thể để lôi cuốn học sinh vào trò chơi, có động viên khen thưởng kịp thời. + Giáo viên thay đổi các ví dụ minh họa [2] trong giờ học tạo cũng là một biện pháp tạo ra được hứng thú học tập của học sinh. Trong những bài mà ví dụ khô khan, xa lạ, khó hiểu giáo viên nên chủ động nêu các ví dụ gần gũi với cuộc sống, với tình hình thời sự và đặc điểm của lứa tuổi học sinh. Chính các ví dụ này làm cho tiết học bớt khô khan cứng nhắc, vui hơn, khơi gợi hứng thú học tập của học sinh hơn. 2.3.2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Vấn đề tạo hứng thú, giúp cho học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả trong tiết học đọc hiểu văn bản đi đôi với hiệu quả và có tính giáo dục cao. Học sinh có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo dục mới là mục đích mà người dạy cần đạt. Người viết xin trình bày một số phương pháp đã áp dụng khi hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản như sau: 2.3.2.1. Phương pháp đưa lời giới thiệu vào bài Đây là phần mà giáo viên ít đầu tư hoặc giả thiết có thì cũng chỉ qua loa mà thôi. Trong phương pháp giảng dạy mới vấn đề này cũng không được đề cập tới. Tôi thấy cần phải có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này. Không thể nào chấp nhận được những cách vào bài như thế này: “Tiết trước chúng ta đã học bàicủa tác giả..., hôm chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp tác giảvới bài”, hoặc có những giáo viên bỏ qua công đoạn này mà ghi ngay tên bài dạy lên bảng và tiến hành học bài mới. Tôi thiết nghĩ lời vào bài phải giới thiệu đựợc đôi nét về tác giả, tác phẩm cũng như văn phong của nhà văn. Nếu dạy thơ thì phải giới thiệu cho các em những bài thơ, hoặc những câu thơ tiêu biểu của tác giả đó. Đồng thời phải đặt bài dạy trong mối liên hệ với các bài trước đó, hoặc đặt trong hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm đóNói chung là làm sao gợi được sự tò mò, thích thú ban đầu của các em đối với tác phẩm, truyền đạt được những thông tin cần thiết về tác giả, tác phẩm. Đôi khi không nhất thiết cứ là lời giới thiệu của giáo viên, cũng có thể tạo nên những tình huống có vấn đề, kích thích học sinh phải giải quyết vấn đề Giáo viên thay lời vào bài bằng cách cho học sinh xem bức tranh vẽ, ảnh. Hoặc ra nhiều câu hỏi có vấn đề, gợi sự tò mò cho học sinh trước khi học bài mới, làm cho hứng thú học tập của học sinh sẽ tăng lên. Người dạy phải tạo được kh
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giang_day_nham_giup_hoc_sinh_lop_7_tru.doc