SKKN Một số biện pháp gây hứng thú trong giờ kể chuyện cho trẻ 5 - 6 tuổi
Ngay từ lúc lọt lòng, trẻ đã được làm quen với những tác phẩm văn học dưới nhiều hình thức khác nhau. Trẻ được nghe qua những lời ru mượt mà của bà, của mẹ, những câu chuyện li kì đầy hấp dẫn của cha. Các tác phẩm văn học như một ô cửa rộng lớn mang đầy màu sắc, âm thanh kì diệu về cuộc sống hàng ngày. Bằng sức mạnh của hình tượng những nhân vật trong tác phẩm văn học như con người, con vật, những bức tranh thiên nhiên được hiện lên qua ngôn ngữ đọc kể đã tác động mạnh mẽ đến trẻ giúp trẻ cảm nhận được đẹp, xấu, thiện, ác trong thiên nhiên cũng như trong xã hội, góp phần hình thành cho trẻ khả năng cảm thụ nghệ thuật, phát triển khả năng tri giác thẩm mĩ. Ngoài ra văn học còn góp một phần quan trọng vào việc phát triển ngôn ngữ, bước đầu hoàn thiện nhân cách toàn diện cho trẻ mầm non.
Văn học có rất nhiều thể loại: Chuyện, thơ, ca dao mỗi thể loại đều có những cái hay, cái đẹp riêng nhưng thể loại mà trẻ thích nhất vẫn là những câu chuyện. Kể chuyện cho trẻ nghe là cách giáo dục trẻ một cách tự nhiên và hiệu quả nhất. Khi được nghe kể chuyện thì trẻ dường như hòa mình vào thế giới của những nhân vật trong câu chuyện và trẻ muốn mình được trở thành những nhân vật đó. Trẻ muốn trở thành chàng Gióng dũng cảm, muốn trở thành cô Tấm hiền lành bước ra từ quả Thị
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA TRƯỜNG MẦM NON HOẰNG HỢP SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI Người thực hiện: Tào Thị Hà Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường MN Hoằng Hợp SKKN thuộc lĩnh vực: phát triển ngôn ngữ THANH HÓA NĂM: 2018 MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1 Mở đầu. 3 1.1 Lý do chọn đề tài. 3 1.2 Mục đích nghiên cứu. 4 1.3 Đối tượng nghiên cứu. 4 1.4 Phương pháp nghiên cứu. 4 2 Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 4 2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 5 2.2 Các biện pháp. Thực trạng về vấn đề trước khi áp dụng SKKN. 5 2.3 Các biện pháp. 6 Biện pháp 1: Xây dựng môi trường học tập phong phú, đa dạng tạo được sự hứng thú cho trẻ trong quá trình hoạt động. 6 Biện pháp 2: Lựa chọn tác phẩm, đặt ra hệ thống câu hỏi đàm thoại phù hợp. 6-7 Biện pháp 3: Chuẩn bị đồ dùng trực quan minh họa nội dung của câu truyện. 8-9 Biện pháp 4: Tạo tâm thế thoải mái và khơi gợi hứng thú cho trẻ. 9-10 Biện pháp 5: Rèn luyện nghệ thuật kể chuyện và cách sử dụng ngôn từ của cô. 10-11 Biện pháp 6: Dạy trẻ kể chuyện sang tạo 10-11 Biện pháp 7: Lồng ghép,tích hợp các nội dung giáo dục 12 Biện pháp 8: Đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy 12-13 Biện pháp 9 : Tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh của trẻ 13-14 2.4 Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,với bản than đồng nghiệp và nhà trường 14-15 3 Kết luận,kiến nghị 16-17 Tài liệu tham khảo 18 1. Mở đầu. - Lý do chọn đề tài: Ngay từ lúc lọt lòng, trẻ đã được làm quen với những tác phẩm văn học dưới nhiều hình thức khác nhau. Trẻ được nghe qua những lời ru mượt mà của bà, của mẹ, những câu chuyện li kì đầy hấp dẫn của cha. Các tác phẩm văn học như một ô cửa rộng lớn mang đầy màu sắc, âm thanh kì diệu về cuộc sống hàng ngày. Bằng sức mạnh của hình tượng những nhân vật trong tác phẩm văn học như con người, con vật, những bức tranh thiên nhiên được hiện lên qua ngôn ngữ đọc kể đã tác động mạnh mẽ đến trẻ giúp trẻ cảm nhận được đẹp, xấu, thiện, ác trong thiên nhiên cũng như trong xã hội, góp phần hình thành cho trẻ khả năng cảm thụ nghệ thuật, phát triển khả năng tri giác thẩm mĩ. Ngoài ra văn học còn góp một phần quan trọng vào việc phát triển ngôn ngữ, bước đầu hoàn thiện nhân cách toàn diện cho trẻ mầm non. Văn học có rất nhiều thể loại: Chuyện, thơ, ca dao mỗi thể loại đều có những cái hay, cái đẹp riêng nhưng thể loại mà trẻ thích nhất vẫn là những câu chuyện. Kể chuyện cho trẻ nghe là cách giáo dục trẻ một cách tự nhiên và hiệu quả nhất. Khi được nghe kể chuyện thì trẻ dường như hòa mình vào thế giới của những nhân vật trong câu chuyện và trẻ muốn mình được trở thành những nhân vật đó. Trẻ muốn trở thành chàng Gióng dũng cảm, muốn trở thành cô Tấm hiền lành bước ra từ quả Thị Với hoạt động kể chuyện, điều đầu tiên mỗi giáo viên mầm non chúng ta cần phải đạt được đó là sự mong chờ đến giờ kể chuyện từ trẻ và lòng yêu thích những câu chuyện đó. Việc lựa chọn những câu chuyện hay có nội dung phù hợp với độ tuổi là điều không phải dễ dàng và làm như thế nào để trẻ hiểu được nội dung của câu chuyện, trẻ hòa mình vào thế giới của những hình tượng văn học đó thì lại càng khó hơn. Giáo viên phải có sự tinh tế trong cách lựa chọn những câu chuyện và phải tìm tòi, suy nghĩ ra những cách truyền thụ câu chyện một cách hấp dẫn để lôi cuốn, thu hút sự hứng thú ở trẻ. Trên thực tế, phần lớn giờ học kể chuyện của trẻ mầm non còn đơn điệu, trẻ chỉ mới nghe hiểu nội dung của câu chuyện mà trẻ không được hòa mình vào khoảng không gian của những câu chuyện đó. Phần đông giáo viên chúng ta chưa tìm tòi, chưa sáng tạo trong cách tổ chức, chưa tạo ra được những điều kiện tốt nhất để tổ chức một tiết kể chuyện mà trong đó trẻ vừa được nghe được trải nghiệm hành động của những nhân vật. Trong hoạt động kể chuyện đã có một số giáo viên nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp tạo được sự hứng thú cho trẻ. Riêng bản thân tôi với mong muốn làm thế nào đó để thu hút được sự tập trung chú ý của trẻ trong hoạt động kể chuyện tôi cũng đã tìm tòi, nghiên cứu sách vở và căn cứ vào quá trình thực tế giảng dạy của mình, tôi đã lựa chọn đề tài “Một số biện pháp gây hứng thú trong giờ kể chuyện cho trẻ 5- 6 tuổi". - Mục đích nghiên cứu. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng bày tỏ có logic, có trình tự chính xác và có hình ảnh nội dung. Đóng góp một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học. Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua môn làm quen văn học thể loại truyện kể. Tạo cho trẻ hoạt động thông qua các hoạt động học tập, vui chơi, phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh tạo điều kiện học tập, làm quen với văn học đặc biệt về thể loại kể truyện. - Đối tượng nghiên cứu. Là đối tượng 5 - 6 tuổi (Lớp MGL), trường Mầm non Hoằng Hợp - Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp kể truyện diễn cảm. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp trao đổi, đàm thoại, sử dụng hệ thống câu hỏi, sử dụng đồ dùng trực quan. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Do đặc điểm tâm sinh lí của trẻ mầm non là khả năng tập trung thấp, trẻ hay có tính bắt chước, luôn tò mò, hiếu động, ham học hỏi và tìm tòi khám phá những gì mới lạ. Mặt khác trẻ ở lứa tuổi này tâm lí thường là: “Học bằng chơi chơi mà học” không thể gò ép trẻ vào một khuôn khổ hay hình thức mang tính áp đặt nào. Trẻ tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên theo sự hưng phấn của trẻ. Xuất phát từ một số cơ sở lí luận khoa học, từ thực trạng việc dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học, trong đó việc dạy trẻ đọc thuộc thơ, từ đó hệ thống hóa đưa ra một số biện pháp dạy trẻ đọc thuộc thơ diễn cảm và ứng dụng vào một số tiết cụ thể, dựa trên những phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Trong các tác phẩm văn học đến với trẻ là thế giới mới về những truyện cổ tích, về cuộc sống thực tại bao gồm: Thiên nhiên, xã hội, con người Tác phẩm văn học diễn tả biểu đạt hình thức đa dạng, độc đáo. Tác phẩm văn học giúp trẻ nhận ra mối quan hệ của tình cảm gia đình, cô cháu, tình yêu thương với mọi người. Làm quen tác phẩm văn học nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi trẻ những rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất nghệ thuật như đọc thơ, kể truyện, trò chơi, chơi đóng kịch, cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu truyện theo tưởng tượng của mình góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật, giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật. Giữa không khí âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn học. Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển ngôn ngữ. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trẻ mầm non rất thích những câu chuyện đặc biệt là những câu chuyện cổ tích, chuyện thần thoại nhưng đôi khi việc tổ chức hoạt động kể chuyện của giáo viên lại tạo sự nhàm chán cho trẻ. Điều thuận lợi khi tôi thực hiện đề tài này đầu tiên đó là cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ có sân chơi thoáng mát, có nhiều đồ dùng đồ chơi tạo điều kiện cho tôi có thể thực hiện được những biện pháp của mình. Thứ hai, trẻ lớp tôi rất thích được nghe và tìm hiểu về nội dung của những câu chuyện có nhiều trẻ rất hứng thú tham gia đóng kịch những câu chuyện. Lớp học của tôi được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường mua sắm trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho hoạt động làm quen tác phẩm văn học như sân khấu rối, rối các loại Thứ ba, bản thân tôi là một giáo viên với tuổi đời còn trẻ luôn yêu nghề, mến trẻ, yêu thích những câu chuyện và cũng được nhà trường đánh giá có năng khiếu trong kể chuyện. Tôi được tham gia buổi tập huấn sinh hoạt chuyên đề của trường, của phòng, từ đó tạo điều kiện cho tôi được học tập, rút kinh nghiệm nâng cao kiến thức của mình. Thứ tư, phụ huynh lớp tôi có nhiều phụ huynh trẻ rất quan tâm đầu tư để con được tiếp xúc với các câu truyện. Vậy nên trẻ được làm quen với nhiều câu truyện hay và mới. Thứ năm, với sự chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường tôi đã xây dựng kế hoạch của lớp dựa trên chương trình khung của trường. Bên cạnh những thuận lợi trên thì trong quá trình thực hiện tôi cũng gặp một số khó khăn sau: - Bên cạnh những trẻ được gia đình quan tâm thì đa số học sinh trong lớp là con em nông thôn với hoàn cảnh gia đình trung bình cho nên việc tiếp xúc với các câu chuyện đối với các là rất ít. Đặc điểm tâm sinh lí của các em không đồng đều. Có một số trẻ còn nói ngọng, nói chưa tròn vành rõ chữ, trong giao tiếp còn lúng túng. - Kỹ năng kể chuyện, thể hiện giọng các nhân vật của trẻ còn hạn chế. - Nhiều trẻ còn thụ động, chưa mạnh dạn, tự tin khi tham gia vào hoạt động kể chuyện. - Việc sử dụng những đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy và học như các loại rốichưa được tốt và môi trường kể chuyện chưa hấp dẫn còn đơn điệu. Hình thức tổ chức lớp chưa linh hoạt nên chưa tạo ra được sự hứng thú cho trẻ. Việc sử dụng đồ dùng trực quan của giáo viên đôi khi còn lúng túng, một số giáo viên chưa phát huy đươc tính sáng tạo của trẻ, chưa cho trẻ tự kể lại chuyện, kể chuyện sáng tạo hay cho trẻ tham gia đóng kịch - Góc sách và góc kể chuyện ở các lớp chưa được chú ý, còn đơn điệu, mờ nhạt. - Căn cứ vào tầm quan trọng của văn học (Cụ thể là dạy truyện) và đặc điểm tình hình của lớp. Nắm bắt được khả năng tiếp thu, cảm nhận tác phẩm của trẻ tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng ban đầu. Khảo sát Số lượng trẻ Tỷ lệ % Trẻ nhớ tên truyện 10/35 29% Hiểu nội dung câu truyện 8/35 23% Nhớ được trình tự nội dung 6/35 17% Biết đánh giá tính chất nhân vật 4/35 11% Kể lại truyện 4/35 11% Thể hiện ngữ điệu giọng nhân vật 3/35 9% Đứng trước thực trạng đó, tôi đã suy nghĩ xây dựng và áp dụng một số biện pháp gây hứng thú trong giờ kể chuyện cho trẻ 5 - 6 tuổi, góp phần nhỏ bé trong việc phát triển toàn diện cho trẻ. 2.3. Các biện pháp. * Biện pháp 1: Xây dựng môi trường học tập phong phú, đa dạng tạo được sự hứng thú cho trẻ trong quá trình hoạt động. Môi trường hoạt động của trẻ bao gồm môi trường trong và ngoài lớp, để kích thích sự hứng thú cho trẻ tôi đã suy nghĩ và tạo một góc kể chuyện là nơi có đầy đủ ánh sáng, với nhiều hình ảnh của những câu chuyện mà trẻ sẽ được làm quen trong chủ đề. Hoặc sử dụng những nguyên vật liệu từ thiên nhiên như rơm, lá khô, hạt... để tạo ra những câu chuyện với những nhân vật ngộ nghĩnh, hấp dẫn thị giác của trẻ. Khi trang trí góc kể chuyện tôi đã chú ý tới tầm nhìn và vị trí quan sát của trẻ những hình ảnh đó phải vừa bằng tầm mắt để trẻ tự mình khám phá, trải nghiệm bằng cách có thể kể chuyện theo cách nghĩ riêng của mình hoặc kể theo nội dung của câu chuyện từ đó trẻ có được nhiều kinh nghiệm hơn, sáng tạo hơn trong suy nghĩ cũng như cách vận dụng ngôn ngữ của mình vào giao tiếp. Ngoài ra, tôi đã chuẩn bị nhiều cuốn truyện tranh có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện có nhiều màu sắc và sắp xếp một cách đẹp mắt để thu hút được sự chú ý của trẻ. Ví dụ: Thực hiện chủ đề động vật thì tôi chuẩn bị nhiều cuốn truyện tranh như: “Quạ và công”, “chú dê đen”, trẻ sẽ tự mình hoặc cùng với các bạn cùng xem tranh chuyện để làm quen với những nhân vật trong câu chuyện. Điều quan trọng hơn nữa đó chính là tôi đã cùng với trẻ của mình tạo ra những đồ chơi, những hình ảnh trang trí cho góc kể chuyện, gợi ý cho trẻ sắp xếp những bức tranh, những cuốn truyện theo ý thích của trẻ, và kết quả là 100% trẻ rất hứng thú, rất nhiệt tình. Trong quá trình thực hiện cùng với cô với các bạn trẻ được trao đổi, thảo luận được đưa ra ý kiến “Phải làm như thế nào nhỉ? Phải làm như thế kia) về những cách thức trang trí, cách thức làm những nhân vật, những đồ chơi từ đó sẽ giúp trẻ hứng thú với câu chuyện và tự tin trong cách giao tiếp của mình. * Biện pháp 2: Lựa chọn tác phẩm chuyện, đặt ra hệ thống câu hỏi đàm thoại phù hợp. Hiện nay giáo dục mầm non theo hướng giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, cho nên việc lựa chọn những tác phẩm văn học sẽ dựa trên những đặc điểm tâm sinh lí, phù hợp với độ tuổi và sở thích của trẻ. Thay vì lựa chọn những câu chuyện từ năm này qua năm khác mà trẻ đã biết qua lời kể của anh chị, bố mẹ, xem trên ti vi những câu chuyện đó không chỉ tạo sự nhàm chán ngay chính cả giáo viên mà còn tạo sự nhàm chán cho chính bản thân trẻ, thì tôi đã lựa chọn như những câu chuyện mới để đưa vào chương trình học sẽ tạo cho trẻ cảm giác mới lạ từ đó trẻ sẽ hứng thú hơn (Ví dụ câu chuyện: “Quạ và công”). Tôi đã chọn lựa những câu chuyện với nội dung phong phú đôi khi có thêm vài tình tiết phức tạp ví dụ: Truyện thần thoại, truyền thuyết. Những câu chuyện dài với nhiều tình tiết giàu triết lý để mở rộng kiến thức và khả năng tư duy của trẻ, truyện tranh về những người khổng lồ hay những con thú biết cư xử giống người (Vịt con nói dối). Đôi khi tôi đã lựa chọn kể cho trẻ nghe những câu chuyện hài để tạo nên những tiếng cười cho trẻ. Trẻ có thể thỏa chí vui cười nhưng đằng sau đó trẻ sẽ cảm nhận được những triết lý để giáo dục trẻ các hành vi, cách cư xử, quy tắc sống cái thiện luôn thắng cái ác (Ví dụ: “Chó sói và cừu non”, “chú dê đen”, “cáo, thỏ và gà trống”...). Sau khi lựa chọn được câu truyện kể thì điều cần chú ý tiếp theo đó chính là hệ thống câu hỏi đàm thoại, chính hệ thống câu hỏi đàm thoại của cô sẽ giúp cho trẻ tìm hiểu đươc nội dung của câu chuyện. Tùy theo mục tiêu của giờ hoạt động và khả năng nhận thức của trẻ mà tôi đã đưa ra hệ thống câu hỏi đàm thoại cho phù hợp và đảm bảo nguyên tắc: Ngắn gọn, logic, dễ hiểu và phù hợp với nội dung câu chuyện và khả năng nhận thức của trẻ có tính gợi mở. Không sử dụng các câu hỏi trả lời dưới dạng “có” và “không” để tránh trường hợp trẻ lười suy nghĩ. Tôi thường xuyên đưa ra các câu hỏi “Tại sao?” “Như thế nào?”, “Vì sao?” để phát huy khả năng tư duy, phán đoán của trẻ. + Mục tiêu bài dạy yêu cầu trẻ hiểu nội dung câu chuyện thì hệ thống câu hỏi sẽ là: - Loại câu hỏi về nội dung: (Chuyện gì? Có những nhân vật nào? Làm gì? Nói gì? Nói như thế nào?). - Loại câu hỏi mang tính chất suy luận: (Tại sao?). - Câu hỏi về thái độ: (Con thích nhân vật nào? Vì sao? Con nghĩ gì về nhân vật này?...). + Mục tiêu bài dạy trẻ kể lại được câu chuyện hoặc đóng kịch ngoài những câu hỏi trên còn có các câu hỏi: - Câu hỏi về ngữ điệu của các nhân vật (Nói gì? Nói như thế nào?). - Loại câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời sử dụng ngôn ngữ miêu tả: (Thế nào? Như thế nào?). - Ví dụ: Câu truyện “Chú dê đen”. Hệ thống câu hỏi về nhân vật cần đặt các câu hỏi như: + Chó sói là nhân vật như thế nào?. + Chó sói là con vật hung dữ cho nên khi giọng của chó sói sẽ như thế nào? Con hãy thử thể hiện giọng của chó sói nào?... + Dê trắng là nhân vật như thế nào?. + Con hãy đóng vai dê trắng nào. Cuối mỗi bài học thì tôi đã đưa ra câu hỏi “vì sao? Tại sao” để một lần nữa củng cố và để biết xem trẻ của mình đã hiểu bài chưa(Ví dụ: Câu chuyện Vịt con nói dối, sau khi cho trẻ xem vở kịch rối “ Vịt con nói dối” tôi đã hỏi trẻ: hậu quả của việc Chuột Típ nói dối là gì? Hoặc vì sao bố mẹ của Vịt con lại không tin tưởng bạn ấy?). *Biện pháp 3: Chuẩn bị đồ dùng trực quan minh họa nội dung của câu chuyện. Bác Hồ trong lúc sinh thời khi nói chuyện với lớp cán bộ đào tạo mẫu giáo Bác đã nói “Trong lúc học cần phải làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học”. Muốn trẻ mầm non hứng thú điều đầu tiên cô giáo mầm non cần phải làm đó là chuẩn bị những phương tiện trực quan mới lạ, đẹp mắt để tạo sự hứng thú cho trẻ. Như chúng ta đã biết trẻ 5 - 6 tuổi đã xuất hiện tư duy trực quan hình tượng nhưng loại tư duy này vẫn còn yếu mà loại tư duy chủ đạo vẫn là tư duy trực quan hành động. Cho nên trong quá trình hoạt động tôi đã tạo điều kiện cho trẻ vừa được nghe, nhìn, sờ Đồ dùng trực quan cần phải đẹp, lạ mắt và dễ sử dụng không làm cho trẻ sợ hãi, kích thước không quá to, quá nhỏ đảm bảo sao cho tất cả các trẻ đều nhìn thấy được. Trong quá trình kể chuyện cho trẻ nghe tôi đã kết hợp với những đồ dùng trực quan như rối, thú bông, tranh, hình ảnh máy tính, các loại đồ chơi tự tạo bằng nguyên liệu sẵn có. Vậy nên hầu như 100% trẻ của lớp tôi đều chăm chú, hứng thú nghe kể và ghi nhớ được trình tự câu chuyện. Mỗi loại đồ dùng trực quan đều có những nét ưu việt khác nhau tùy vào mục đích, nội dung của từng tiết học và điều kiện của các lớp mà chúng ta có thể lựa chọn đồ dùng trực quan cho phù hợp. Đồ dùng đồ chơi trẻ cùng cô thực hiện - Sử dụng máy tính trẻ sẽ thấy được các nhân vật trong câu chuyện di chuyển, hoạt động một cách sống động và hấp dẫn hơn và không phải sợ gặp khó khăn khi có tình huống xảy ra. - Đồ chơi tận dụng các nguyên liệu sẵn có như các loại củ, quả, rơm, lá cây... Tôi cùng với trẻ lớp mình dùng các loại lá cây xếp hình các con vật sau đó sẽ cùng nhau kể chuyện sáng tạo về sản phẩm của mình. Điều đó đã tạo nên hứng thú cho trẻ, luyện ngôn ngữ, cách giao tiếp và ngoài ra còn phát huy được trí tưởng tượng cho trẻ. VD: Chuyện “Chàng Rùa”. Tôi đã sử dụng vỏ quả bóng nhựa, vỏ dừa, hoặc viên đá... để tạo dáng của con rùa. - Sử dụng rối: Các nhân vật được làm bằng rối sẽ tạo ra một thế giới của riêng trẻ một cách sinh động, một mô hình thu nhỏ các nhân vật trong câu chuyện. Trẻ có thể cùng cô tạo những nhân vật rối ngộ nghĩnh, đáng yêu, trẻ có thể vừa xem vừa hoạt động trải nghiệm cùng với những nhân vật rối đó. Rối que sử dụng trong câu chuyện “Quạ và công” - Sân khấu rối: Để tạo được sự hấp dẫn cuốn hút trẻ thì sân khấu rối phải nhiều màu sắc đẹp, phù hợp với nội dung ngữ cảnh của câu chuyện. Không gian sân khấu phải đủ rộng để trẻ dễ dàng hoạt động trải nghiệm đóng vai những nhân vật. - Trang phục biểu diễn: Một vở kịch không thể thành công nếu như thiếu đi đạo cụ và trang phục biểu diễn. Trẻ có thể cùng cô làm những trang phục cho các nhân vật rồi khoác lên mình những bộ trang phục đó sẽ tạo nên sự sung sướng, trẻ sẽ hóa thân vào nhân vật một cách hứng thú, nhiệt tình hơn. Trang phục phải đẹp mắt với nhiều màu sắc và phù hợp với nội dung của câu chuyện, phù hợp với đặc điểm tính cách của các nhân vật trong câu chuyện. Với những bộ trang phục ngộ nghĩnh và được hóa trang thành các nhân vật trong câu chuyện sẽ giúp trẻ cảm thấy tự tin khi nhập vai và thể hiện tính cách của các nhân vật một cách hồn nhiên tạo ra sự hấp dẫn và cuốn hút hơn đối với người xem. *Biện pháp 4: Tạo tâm thế thoải mái và khơi gợi hứng thú cho trẻ. Việc tạo tâm thế cho trẻ bước vào giờ học rất quan trọng. Thành công của giáo viên đó chính là tạo được sự hứng thú cho trẻ khi bước vào tiết học. Bởi vì tạo được sự hứng thú cho trẻ khi bước vào học sẽ giúp trẻ tập trung chú ý hơn và dễ dàng hòa mình vào nội dung của những nhân vật trong câu chuyện. Nếu như trẻ không có sự hứng thú thì trẻ sẽ không thể tập trung chú ý như vậy mục tiêu mà giáo viên đặt ra sẽ không thực hiện được. Cho nên điều đầu tiên, tôi đã suy nghĩ làm thế nào đó để tạo ra cách vào bài một cách hấp dẫn tạo sự hứng thú cho trẻ. Có rất nhiều cách để vào bài có thể sử dụng câu đố, làm quen với các nhân vật trong câu chuyện, chơi trò chơi, ghép tranh, tạo tình huống Tùy vào mục tiêu cô đưa ra để lựa chọn cách vào bài một cách phù hợp. Ví dụ 1: Câu chuyện “Vịt con nói dối”, mục tiêu của bài đó là trẻ làm quen với câu chuyện tôi sử dụng cách vào bài đó là sử dụng câu đố “Tôi dùng để nói điều hay Ai mà nói dối tôi buồn buồn ngay Đố bé biết đó là cái gì?” (Bộ phận nào trên cơ thể). (Cái miệng). Thế cái miệng dùng để nói những điều hay lẽ phải, còn khi cái miệng nói dối thì điều gì sẽ xảy ra? Có một bạn rất là hay nói dối, bạn ấy nói dối mọi lúc mọi nơi, không biết bạn ấy nói dối ai, nói dối những
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_gay_hung_thu_trong_gio_ke_chuyen_cho_t.doc