SKKN Một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4
Với vai trò là cấp học nền tảng, giáo dục tiểu học là "nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh học tiếp trung học cơ sở". Do đó, mục đích giúp học sinh có những kĩ năng, kiến thức đặc biệt là kiến thức toán học có vị trí rất quan trọng, đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt. góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn. Vấn đề đặt ra là dạy và học toán như thế nào để vai trò của toán học được phát huy và có tác dụng thiết thực.
Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí, mục đích và mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán ở từng lớp nói riêng. Nó không chỉ là cách thức truyền thụ kiến toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh. Chúng ta biết rằng, sản phẩm của giáo dục khác với sản phẩm của người thợ may, thợ mộc. sản phẩm của giáo dục là đào tạo ra những con người biết sáng tạo. Vì vậy việc lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng PPDH sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở từng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh phải là một nghệ thuật, bản thân người GV cũng phải luôn học hỏi, sáng tạo.
MỤC LỤC Nội dung Trang 1 . PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chon đề tài 4 1.2. Mục đích nghiên cứu 5 1.3. Đối tượng nghiên cứu 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 5 1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm. 6 2 . NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 6 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 6 2.3. Một số biện pháp thực hiện 7 2.4. Hiệu quả của sáng kiến 16 3 KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận 17 3.2 Kiến Nghị 18 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài Với vai trò là cấp học nền tảng, giáo dục tiểu học là "nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh học tiếp trung học cơ sở". Do đó, mục đích giúp học sinh có những kĩ năng, kiến thức đặc biệt là kiến thức toán học có vị trí rất quan trọng, đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt... góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn. Vấn đề đặt ra là dạy và học toán như thế nào để vai trò của toán học được phát huy và có tác dụng thiết thực. Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí, mục đích và mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán ở từng lớp nói riêng. Nó không chỉ là cách thức truyền thụ kiến toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh. Chúng ta biết rằng, sản phẩm của giáo dục khác với sản phẩm của người thợ may, thợ mộc... sản phẩm của giáo dục là đào tạo ra những con người biết sáng tạo. Vì vậy việc lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng PPDH sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở từng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh phải là một nghệ thuật, bản thân người GV cũng phải luôn học hỏi, sáng tạo. Như vậy, vị trí và nhiệm vụ của môn toán là vô cùng quan trọng. Song, qua thực tế giảng dạy tại đơn vị, bản thân tôi thấy nhiều GV vẫn chưa xác định đúng vai trò của môn học, chưa nghiên cứu bài dạy kĩ lưỡng, chưa tìm ra cách dẫn dắt HS tiếp cận và chiếm lĩnh kiến thức bài học chủ động. Sử dụng đồ dùng chưa linh hoạt, chưa hiệu quả; chưa chú ý đến các đối tượng HS trong lớp, chưa khai thác hết ý đồ của sách giáo khoa. Nhiều GV chỉ gọi một số HS hay phát biểu, vẫn còn HS chưa tập trung vào bài học, những kĩ năng toán cần phát huy cho đối tượng HS có năng lực toán chưa được chú ý, dạy học theo nhóm còn mang tính hình thức, bao quát lớp chưa tốt Mặt khác, từ 6/11/2016, Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT hướng dẫn cách đánh giá HS tiểu học có hiệu lực. Với cách kiểm tra định kì theo 4 mức độ như hướng dẫn của Thông tư, GV cần phải có sự điều chỉnh trong cách dạy học, chú ý phát huy tính tích cực sáng tạo trong dạy học, giúp HS hiểu sâu, rèn luyện tốt các kĩ năng của bài học. Vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào để truyền đạt kiến thức, phát triển năng lực toán cho HS, góp phần thực hiện tốt mục tiêu bộ môn này tới học sinh tiểu học. Với suy nghĩ đó, trong quá trình dạy học ở lớp 4, tôi đã đi sâu vào tìm tòi, thực nghiệm và rút ra được "Một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4." 1.2 Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ quan điểm chương trình cần thực hành, vận dụng nên nói chung nội dung chương trình Toán đã tinh giảm, tập trung vào các kiến thức kỹ năng cơ bản bám sát thực tế, tích hợp được nhiều kĩ năng. Để HS vận dụng tốt các kĩ năng bài học thì các em phải hiểu bản chất của các đơn vị kiến thức được học rồi nhớ và luyện tập, vận dụng.Muốn vậy, vai trò hướng dẫn của GV để HS chủ động tìm ra kiến thức là rất quan trọng. Nhằm mục đích tìm ra con đường, cách thức phù hợp nhất cho các đối tượng học sinh, để giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức bằng cách đi từ cái đã biết, tư duy, tìm tòi để tự tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Với mong muốn tích lũy kinh nghiệm qua các tiết dạy để HS tự chiếm lĩnh kiến thức môn Toán một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu. Giúp HS chủ động lĩnh hội kiến thức, từ đó hiểu sâu, nhớ lâu, phát huy tính tư duy sáng tạo cho HS, biến những ý nghĩ "học Toán thật là khó" của một số học sinh thành hứng thú học Toán chính là mục đích của đề tài này. 1.3 Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các phương pháp dạy học, các kĩ thuật dạy học tích cực. Áp dụng các kinh nghiệm dạy học của bản thân từ đó tìm ra các biện pháp, kĩ thuật phù hợp, hiệu quả nhất để phát huy tính tích cực của HS trong dạy học môn Toán lớp 4 . 1.4 Phương pháp nghiên cứu 1.4.1 Nghiên cứu tài liệu: Nắm bắt hệ thống các bài học trong chương trình Toán 4, nắm vững mục tiêu môn học, tiết học, lựa chọn các biện pháp phù hợp. Nghiên cứu tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên TH13, TH14, TH15. Tham khảo qua các tài liệu đổi mới phương pháp giáo dục phục vụ dạy học Toán nói chung, Toán 4 nói riêng. Tham khảo các tạp chí giáo dục. Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn làm đồ dùng dạy Toán. Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT hướng dẫn cách đánh giá HS tiểu học. Tham khảo các thông tin, nguồn tài liệu toán học trên Internet. 1.4.2 Nghiên cứu thực tế. Tiến hành ra đề và khảo sát để lấy số liệu đối chứng. Nắm bắt, phân loại đối tượng HS. Thực hành lập kế hoạch bài học để áp dụng. Chuẩn bị đồ dùng hạy học. Thực hiện dạy học thực nghiệm trên lớp theo kế hoạch. Dự giờ trao đổi với đồng nghiệp để so sánh, đối chiếu việc áp dụng các biện pháp dạy học thuộc phạm vi nghiên cứu. Ghi chép, tích lũy các biện pháp qua thực tế giảng dạy để đúc rút kinh nghiệm. 1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm. Trên cơ sở sáng kiến kinh nghiệm của năm học trước, qua thực tế vận dụng tại lớp dạy, sáng kiến được bổ sung thêm hai biện pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4 là: Biện pháp 5: Khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải trong một bài toán nhắm phát huy tính sáng tạo, khả năng phát hiện của học sinh. Biện pháp 6: Khai thác sâu các bài tập trong sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy và gây hứng thú học tập cho học, để dạy học đến cá thể học sinh. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1 Cơ sở lí luận của sang kiến kinh nghiệm Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới PPDH. Mục đích của đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn; có niềm vui và hứng thú trong học tập. Phương pháp dạy học là lĩnh vực phức tạp và đa dạng. Hiện có nhiều tài liệu, nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về PPDH ở Tiểu học nói chung, PPDH Toán nói riêng. Điều đó, một mặt tạo cơ hội cho GV được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin phong phú, đa dạng, nhưng mặt khác cũng gây lúng túng cho một số GV trong quá trình thực hiện đổi mới PPDH. Từ mục đích đổi mới PPDH, giáo viên cần căn cứ vào nội dung , tính chất từng bài; căn cứ vào trình độ học sinh, sở trường của GV và điều kiện hoàn cảnh của lớp học mà có những cách thức, biện pháp phù hợp giúp HS lĩnh hội kiến thức, kết hợp sử dụng các PPDH một cách linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả. 2.2 Thực trạng của vấn đề 2.2.1. Về phía giáo viên: Việc đổi mới PPDH đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Trong thực tế dạy học vẫn còn một số GV chưa chú ý đúng mức tới việc vận dụng ưu điểm và phối hợp các PPDH như thế nào cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nghiên cứu kĩ các phương pháp, kĩ thuật cần thiết và tích cực áp dụng cho từng bài dạy, Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú, chưa đạt được hiệu quả. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh, chưa kích thích được khả năng tư duy của HS. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, truyền đạt kiến thức còn mang tính áp đặt, giảng giải, đơn điệu. Nội dung mỗi bài học thường nằm ngay trong tiêu đề bài học. GV chưa chú ý đúng mức đến việc giúp HS hiểu nghĩa của các từ ngữ trong đầu bài, chưa chú ý đến ý nghĩa thực tế của bài toán. Quá trình dẫn dắt khai thác nội dung chưa logic, chưa tạo ra những tình huống có vấn đề để HS tự nhớ lại kiến thức cũ vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong tư duy để tìm ra kiến thức mới, vận dụng các hình thức dạy học còn mang tính hình thức. Trong thực hành GV cũng chưa khai thác hết những đơn vị kiến thức cần củng cố, những kiến thức cần mở rộng hay chốt lại cách thực hiện. Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng. Đồ dùng dạy học phong phú, mới lạ, hay đơn giản đều phải có tác dụng thu hút các giác quan, tăng sự chú ý của học sinh vào bài giảng. Điều quan trọng là phải tạo chỗ dựa cho quá trình suy nghĩ, tri giác tiếp theo. Những đồ dùng dạy học càng thu hút và huy động được nhiều các giác quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số giáo viên chỉ vẽ hình và cho học sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình Không cho các em thao tác và như thế các em chỉ huy động được giác quan thị giác (nhìn lên bảng) và thính giác (nghe cô giảng bài). Thực tế, một số giáo viên ít dành thời gian cho việc nghiên cứu, chuẩn bị thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy đạt hiệu quả dẫn tới việc tiếp thu bài môn Toán chưa cao. 2.2.2. Về phía học sinh: Qua giảng dạy tôi thấy, rất nhiều HS chưa tìm thấy hứng thú học Toán, ngại học toán. Học sinh chưa chịu khó, tích cực tư duy, suy nghĩ, tìm tòi trong quá trình học. Cho nên sau khi học xong bài, các em chỉ nắm được lượng kiến thức thầy giảng theo kiểu ghi nhớ máy móc, làm bài theo các bước, không thể giải thích được các bước giải, hoặc rất nhanh quên và kỹ năng tính toán hạn chế. Ví dụ: Khi học xong các các phép tính với phân số các em vẫn còn nhầm lẫn: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi cộng tử số, có khi nhân phân số các em cũng quy đồng mặc dù khi học xong bài mới các em vân dụng làm bài rất tốt. Hoặc nhầm lẫn giữa các bước làm của các bài toán điển hình, giữa các tính chất được học trong chương trình... Trước thực trạng trên, trong quá trình dạy học tôi nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, vận dụng các phương pháp dạy học trong chương trình toán 4, trong từng bài học để HS tiếp thu bài chủ động, tích cực. Để phục vụ cho việc nghiên cứu sáng kiến, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh lớp 4A6 đầu năm học 2018 – 2019 để đối chiếu chất lượng. Kết quả khảo sát môn Toán như sau: Tổng số học sinh Điểm (9 - 10 ) Điểm ( 7 - 8 ) Điểm ( 5 - 6 ) Điểm ( Dưới 5 ) 50 TS % TS % TS % TS % 16 32 20 40 10 20 4 8 2.3 Một số biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Giúp học sinh hiểu một số thuật ngữ toán học và giúp học sinh yêu thích học Toán qua việc cung cấp them những thông tin “ Có thể em chưa biết” Trong chương trình Toán 4, tên đầu bài chính là kiến thức trọng tâm của bài. Khi dạy học bài mới, GV cần chú ý giải nghĩa các thuật ngữ toán học mới mà HS lần đầu làm quen. Liên hệ với các từ ngữ chứa các thuật ngữ thường dùng trong cuộc sống. Kể thêm cho HS biết về những mẩu chuyện vui ứng dụng hay nguồn gốc của kiến thức bài học. Điều này sẽ giúp HS định hình và hiểu vấn đề bài học tốt hơn, yêu thích học Toán hơn. Tùy thuộc vào từng bài học mà GV có thể chọn thời điểm giải nghĩa hay liên hệ cho phù hợp. Ví dụ: Bài “Phân số”. Đây là bài học mà lần đầu tiên HS được tiếp xúc với thuật ngữ "phân số". Sau khi cho HS nhận biết phân số cần giải thích để HS hiểu : Phân số là chỉ các phần của đơn vị hoặc các đơn vị. So sánh với số tự nhiên để thấy số tự nhiên chỉ số lượng các đơn vị. Kể thêm: “ Khi loài người bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo thì cũng là lúc nhu cầu đếm và chia phát sinh. Để chia cho kết quả công bằng, phân số được ra đời. Lịch sử ghi nhận phân số được đưa thành kí hiệu Toán học đầu tiên là của người Ai Cập cách đây khoảng 3.650 năm. Lúc đó, các phân số đều chỉ có tử số là 1, các mẫu số là số tự nhiên lớn hơn 0. Ngày ấy, loài người thống nhất gọi đó là những phân số Ai Cập.” Ví dụ: Bài "Quy đồng mẫu số các phân số". Đây cũng là bài học mà lần đầu tiên HS được tiếp xúc với thuật ngữ "quy đồng". Sau khi giới thiệu bài học, GV cần giúp HS hiểu nghĩa của từ này bằng cách Tìm hiểu nghĩa của từng từ: "quy" là gom lại, đưa về, tính về...,"đồng" là "cùng" ,"quy đồng" trong toán học được hiểu là tính về cùng. Vậy "quy đồng mẫu số" là tính về cùng mẫu số ( làm cho các mẫu số giống nhau). Ví dụ: Bài "Tính chất giao hoán của phép cộng". Thuật ngữ " tính chất giao hoán" cũng là lần đầu tiên HS được tiếp xúc. Vì tên thuật ngữ này liên quan đến nội dung tính chất nên GV cần giúp HS hiểu nghĩa của từ ngay từ đầu bài học: "giao hoán" là trao đổi vị trí từ đó hiểu nội dung tính chất giao hoán của phép cộng là thay đổi vị trí ( đổi chỗ) các số hạng trong phép cộng. Điều đó giúp HS hiểu do chỉ thay đổi vị trí các số hạng chứ không phải thay đổi các số hạng nên tổng không thay đổi. Thực tế rất nhiều HS nêu tính chất sai: “ Khi thay đổi các số hạng trong một tổng thì tổng không thay đổi”. Ví dụ: Bài "Tỉ lệ bản đồ". Trước tiên cần cho HS hiểu nghĩa của từ “ bản đồ” là hình vẽ thu nhỏ một khu vực hay toàn bộ bề mặt Trái Đất theo một tỉ lệ nhất định.Vậy khi thu nhỏ thì có sự chênh lệch về kích thước của vật trên hình vẽ và kích thước của vật thật. Vậy “ tỉ lệ bản đồ” là tỉ số giữa kích thước của vật trên hình vẽ ( bản đồ) với kích thước vật thật của nó. Tỉ lệ bản đồ cũng cho ta biết vật thật đã được thu nhỏ kích thước bao nhiêu lần. Việc hiểu nghĩa các thuật ngữ này giúp HS hiểu về ý nghĩa của kiến thức bài học, là kiến thức quan trọng cho việc tiếp thu và vận dụng giải các bài toán về ứng dụng tỉ lệ bản đồ. Có thể nói, việc HS hiểu nghĩa của các thuật ngữ toán học sẽ giúp HS có nhiều thuận lợi trong quá trình hình thành hoặc tìm ra kiến thức mới và như vậy việc ghi nhớ kiến thức cũng tốt hơn. Biện pháp 2: Giúp học sinh phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức và hiểu sâu kiến thức trọng tâm của bài học. Đúc rút thành các bước giải, công thức giải. Đối với các bài học là bài nhận biết kiến thức mới, GV cần tạo ra các tình huống có vấn đề, giúp HS tự phát hiện vấn đề của bài học rồi sử dụng kiến thức đã học, kinh nghiệm của bản thân (hoặc kinh nghiệm của các bạn trong nhóm nhỏ) để tìm mối liên hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã biết, từ đó tự tìm cách giải quyết vấn đề. Chẳng hạn dạy bài “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ” (SGK Toán 4 trang 80) * GV đưa ví dụ 1: 320 : 40 = ? Yêu cầu HS nhận xét đặc điểm của số bị chia, số chia để nhận ra phép chia hai số có tận cùng là các chữ số 0. Đây là vấn đề cần giải quyết. Việc yêu cầu HS tìm thương của phép chia này là tình huống gợi vấn đề, là yêu cầu nhận thức mà HS chưa thể giải quyết được ngay, nhưng bằng vốn kiến thức đã học, sự hướng dẫn của GV thì HS có thể tìm ra cách làm. Có thể hướng dẫn như sau: + Bước 1: Định hướng cho HS vận dụng tính chất chia một số cho một tích để tìm kết quả. 320 : 40 = 320 : ( 10 x 4) = 320 : 10 : 4 = 32 : 4 = 8 + Bước 2: HS nhận xét nhận ra 320 : 40 = 32 : 4. Đây là vấn đề của bài học mà GV cần giúp HS phát hiện. GV tổ chức cho HS hợp tác, trao đổi nhóm nhỏ để nhận thấy phép chia 320 : 40 đã được rút gọn thành phép chia 32 : 4. HS phải lí giải được số bị chia, số chia đã cùng giảm 10 lần, và khi cùng giảm như vậy thì thương không thay đổi. + Bước 3: Rút ra nhận xét: Khi chia 320 : 40 ta có thể cùng xóa một chữ số 0 ở tận cùng của số bị chia, số chia , rồi chia như thường. Với cách làm trên, HS vừa chủ động chiếm lĩnh kiến thức, vừa hiểu bản chất cách làm mà không tiếp thu thụ động theo hướng dẫn từng bước của GV. * Ví dụ 2: 32000 : 400 = ? HS có thể vận dụng những hiểu biết ở ví dụ 1 để tìm thương của phép chia này. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã gặp 2 trường hợp xảy ra: Trường hợp 1: Những HS có khả năng phát hiện vấn đề thực hành và tìm ngay được kết quả của phép tính. Các em đã giảm số bị chia và số chia 100 lần bằng cách cùng xóa ở số chia và số bị chia mỗi số hai chữ số 0. 32000 : 400 = 320 : 4 = 80 Khi GV yêu cầu HS giải thích cách làm, HS dùng tính chất chia một số cho một tích, liên hệ ở ví dụ 1 để lí giải rất chính xác. Trường hợp 2: Những HS tiếp thu chậm hơn thì thực hiện tuần tự như ví dụ 1. Như vậy, việc HS tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề ở ví dụ 1 đã giúp HS hiểu sâu ví dụ 1, là cơ sở cho sự liên tưởng đến cách giải quyết vấn đề của ví dụ 2. Có thể nói, việc giúp HS tự mình phát hiện và tự giải quyết vấn đề sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức nhanh, hiệu quả và ghi nhớ lâu vì đó là trải nghiệm của các em. Bên cạnh đó, GV cần sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi giúp HS hiểu và rút ra ghi nhớ nội dung bài học. Bởi lẽ trong quá trình học, HS phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề theo suy nghĩ của mình hoặc của nhóm. HS có thể nhớ các bước làm của sách khi chuẩn bị bài nhưng chưa hiểu mục đích, ý nghĩa của từng bước, trình tự các bước. Vì vậy, cần có sự hướng dẫn của GV bằng hệ thống câu hỏi lo gic phù hợp, nhằm hướng HS thực hiện nhiệm vụ học tập, giúp HS hiểu đúng và hiểu sâu nội dung bài học. Ví dụ trong bài “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ” như đã đề cập ở trên. Sau khi HS phát hiện ra 320 : 40 = 32 : 4, GV đưa ra một số câu hỏi giúp HS hiểu tại sao 320 : 40 = 32 : 4. Ở ví dụ1 Có thể hỏi như sau: Câu 1: Số bị chia và số chia đã thay đổi như thế nào ? ( Cùng giảm 10 lần). Câu 2: Khi cùng giảm số bị chia, số chia cùng một số lần như nhau (10 lần) thì thương như thế nào? ( Thương không thay đổi). Câu 3: Khi chia 320 :40 ta có thể thực hiện như thế nào cho thuận tiện? ( Cùng bớt ở số chia và số bị chia một chữ số 0 ) Nhưng sang ví dụ 2, GV không dùng câu hỏi như ví dụ 1 nhưng HS vẫn có thể hiểu, giải thích cách làm của mình như ví dụ1. Để giúp HS hiểu sâu hơn nội dung bài học, GV có thể đặt câu hỏi: Câu 1: Khi cùng xóa 1,2,3... chữ số 0 ở tận cùng của số chia, số bị chia của một phép chia để được một phép chia mới thì thành phần nào của phép chia thay đổi, thành phần nào không thay đổi? ( Số bị chia, số chia và số dư trong trường hợp chia có dư thay đổi vì cùng giảm 10,100, 1000... lần. Thương không thay đổi.) Trả lời được câu hỏi này là cơ sở để HS có thể xác định được số dư trong phép chia trường hợp chia có dư. Đây là yêu cầu cao hơn, kích thích sự tư duy, mở rộng kiến thức cho đối tượng HS có khả năng tư duy tốt. Câu 2: Khi thực hiện phép chia nên xóa chữ số 0 ở số nào trước? ( xóa ở số chia trước, làm vậy sẽ tránh nhầm lẫn trong trường hợp số bị chia có nhiều chữ số 0.) Những định hướng về kiến thức cần khai thác và cách dẫn dắt của GV như trên, ngoài việc giúp HS hiểu bản chất của cách thực hiện, ghi nhớ cách làm còn là cơ sở cho việc giải các bài toán củng cố và mở rộng có liên quan đến chia hai số có tận cùng là chữ số 0. Từ ghi nhớ bài học “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ” GV định hướng để HS rút ra các bước thực hiện sẽ giúp HS dễ nhớ hơn là đọc thuộc quy tắc: Bước 1: Cùng xóa một, hai, ba, chữ số 0 ở tận cùng của số chia, số bị chia.( xóa số chia trước) Bước 2: Chia như thường. Đối với các bài học khác nếu có thể GV cũng chuyển quy tắc thành các bước làm phù hợp sẽ giúp việc ghi nhớ của HS dễ dàng hơn. Ví dụ: Bài "Ứng dụng của tỉ lệ bản đồ". (SGK Toán 4 trang 156) Đây là hai bài toán liên quan đến tỉ lệ bản đồ. Từ kiến thức của bài “ Tỉ lệ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_day_hoc_phat_huy_tinh_tich_cuc_cua_hoc.doc