SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp 4 và lớp 5 ở trường tiểu học Xuân Lộc

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp 4 và lớp 5 ở trường tiểu học Xuân Lộc

 Chương trình Tiểu học hiện hành ra đời chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ hình thành và phát triển 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết (mục tiêu hình thành và phát triển kĩ năng được đưa lên hàng đầu) nhằm tạo ra ở học sinh năng lực dùng tiếng Việt để học tập và giao tiếp. Giúp trẻ sử dụng tốt Tiếng Việt trong học tập và giao tiếp tức là làm cho việc dạy Tiếng Việt hoà nhập với xu hướng chung của việc dạy tiếng trên thế giới, hướng vào việc chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, đồng thời góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Phân môn Tập làm văn có thể nói là một trong những phân môn khó nhất của bộ môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đó là một phân môn mang tính thực hành tổng hợp bởi nó mang tính tích hợp cao. Muốn học tốt phân môn Tập làm văn, học sinh phải đọc và nghe tốt văn bản; nắm được các kiến thức cơ bản về từ và câu, về văn bản . mà đây thường là những kiến thức khó, trừu tượng đối với học sinh Tiểu học.

 Thực tế qua việc dạy học phân môn TLV ở Trường Tiểu học Xuân Lộc thì học sinh đã đạt được những kĩ năng cơ bản như: viết được các văn bản nghệ thuật (tả cảnh, tả người) và các văn bản thông dụng ở mức độ đơn giản. Nhưng bên cạnh đó thì việc dạy và học phân môn Tập làm văn còn nhiều bất cập và hạn chế như: giáo viên chỉ chú trọng đến việc rèn kĩ năng viết mà chưa chú trọng lắm đến việc rèn kĩ năng nói, nghe,. học sinh chưa phân biệt được sự khác nhau giữa lời văn trong văn bản nói và văn bản viết, giáo viên cũng mới chỉ hướng dẫn học sinh viết văn chủ yếu theo mẫu mà chưa có sự sáng tạo, chưa thể hiện được dấu ấn cá nhân của mình trong từng bài viết, trong từng hoàn cảnh cụ thể, nhất là ở những đề văn đòi hỏi bài làm phải mang tính sáng tạo cao thì phần lớn học sinh chưa làm được. Bởi vậy, nhìn chung chất lượng dạy học phân môn TLV còn hạn chế. Mặt khác, theo cấu trúc và ma trận đề kiểm tra Tiếng Việt lớp 4 và lớp 5 theo Thông tư số: 22/2016/TT-BGDĐT thì phân môn tập làm văn được coi trọng cả về thời lượng và số điểm. Đây là điều mà nhiều nhà giáo trăn trở đang tìm hướng giải quyết. Với cương vị là một cán bộ quản lí chuyên môn nhà trường tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp 4 và lớp 5 ở trường tiểu học Xuân Lộc” để nghiên cứu cho bản thân.

 

doc 24 trang thuychi01 8170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp 4 và lớp 5 ở trường tiểu học Xuân Lộc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU
1
Lí do chọn đề tài
1
Mục đích nghiên cứu
1
Đối tượng nghiên cứu
1
Phương pháp nghiên cứu
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
Cơ sở lí luận
3
Thực trạng
5
Giải pháp, Biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng dạy học phân môn TLV
8
Kiểm nghiệm
18
Bài học kinh nghiệm
19
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
20
 3.1.Kết luận
20
 3.2.Kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
 Chương trình Tiểu học hiện hành ra đời chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ hình thành và phát triển 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết (mục tiêu hình thành và phát triển kĩ năng được đưa lên hàng đầu) nhằm tạo ra ở học sinh năng lực dùng tiếng Việt để học tập và giao tiếp. Giúp trẻ sử dụng tốt Tiếng Việt trong học tập và giao tiếp tức là làm cho việc dạy Tiếng Việt hoà nhập với xu hướng chung của việc dạy tiếng trên thế giới, hướng vào việc chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, đồng thời góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Phân môn Tập làm văn có thể nói là một trong những phân môn khó nhất của bộ môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đó là một phân môn mang tính thực hành tổng hợp bởi nó mang tính tích hợp cao. Muốn học tốt phân môn Tập làm văn, học sinh phải đọc và nghe tốt văn bản; nắm được các kiến thức cơ bản về từ và câu, về văn bản ... mà đây thường là những kiến thức khó, trừu tượng đối với học sinh Tiểu học.
 Thực tế qua việc dạy học phân môn TLV ở Trường Tiểu học Xuân Lộc thì học sinh đã đạt được những kĩ năng cơ bản như: viết được các văn bản nghệ thuật (tả cảnh, tả người) và các văn bản thông dụng ở mức độ đơn giản. Nhưng bên cạnh đó thì việc dạy và học phân môn Tập làm văn còn nhiều bất cập và hạn chế như: giáo viên chỉ chú trọng đến việc rèn kĩ năng viết mà chưa chú trọng lắm đến việc rèn kĩ năng nói, nghe,... học sinh chưa phân biệt được sự khác nhau giữa lời văn trong văn bản nói và văn bản viết, giáo viên cũng mới chỉ hướng dẫn học sinh viết văn chủ yếu theo mẫu mà chưa có sự sáng tạo, chưa thể hiện được dấu ấn cá nhân của mình trong từng bài viết, trong từng hoàn cảnh cụ thể, nhất là ở những đề văn đòi hỏi bài làm phải mang tính sáng tạo cao thì phần lớn học sinh chưa làm được. Bởi vậy, nhìn chung chất lượng dạy học phân môn TLV còn hạn chế. Mặt khác, theo cấu trúc và ma trận đề kiểm tra Tiếng Việt lớp 4 và lớp 5 theo Thông tư số: 22/2016/TT-BGDĐT thì phân môn tập làm văn được coi trọng cả về thời lượng và số điểm. Đây là điều mà nhiều nhà giáo trăn trở đang tìm hướng giải quyết. Với cương vị là một cán bộ quản lí chuyên môn nhà trường tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp 4 và lớp 5 ở trường tiểu học Xuân Lộc” để nghiên cứu cho bản thân. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Nhằm hiểu sâu hơn về các biện pháp chỉ đạo dạy học nâng cao chất lượng phân môn TLV ở lớp 4 và lớp 5. Tìm hiểu và đánh giá thực trạng và hiệu quả việc dạy học phân môn TLV. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dạy học phân môn TLV, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 - Nghiên cứu cơ sở lí luận về cấu trúc, vị trí và mục tiêu của phân môn TLV lớp 4 và lớp 5 ở trường tiểu học. 
 - Tìm hiểu thực trạng việc dạy học phân môn TLV ở trường tiểu học Xuân Lộc
 - Một số giải pháp và biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn TLV ở lớp 4 và lớp 5. 
 - Kết luận qua nghiên cứu, ứng dụng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 - Nghiên cứu trong tài liệu
 - Khảo sát
 - Thực hành
 - Nghiên cứu trên thực tiễn trong nhà trường, hội thảo, trao đổi.
 - Quan sát, so sánh
 - Kiểm tra, đánh giá
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1. Cơ sở lí luận:
 2.1.1. Vị trí, cấu trúc chương trình. 
Về vị trí : Phân môn TLV bao gồm cả hệ thống kiến thức về ngữ âm, từ, câu, đoạn và văn bản. Bởi vậy, trong một tuần, bao giờ tiết học TLV cũng được xếp học sau khi học các phân môn như Tập đọc, Chính tả, LTVC ... để không chỉ nhằm giúp học sinh được tiếp cận một cách có hệ thống theo chủ điểm học tập được đề cập đến trong tuần mà còn nhằm trang bị cho học sinh một vốn kiến thức nhất định phục vụ cho tiết học TLV đó.
Cấu trúc chương trình Tập làm văn lớp 4, lớp 5. [1]; [2]
* Lớp 4:
 Số tiết
Loại văn bản
Học kì 1
Học kì 2
Cả năm
Kể chuyện
19
19
Miêu tả
Khái niệm miêu tả
Miêu tả đồ vật
Miêu tả cây cối 
Miêu tả con vật
1
6
4
11 (+3)
8
1
10
11 (+3)
8
Các loại văn bản khác
Viết thư
Trao đổi ý kiến
Giới thiệu hoạt động
Tóm tắt tin tức
Điền vào giấy tờ in sẵn
3
2
1
1
3
3
3
2
2
3
3
Tổng cộng số tiết
32
30
62
* Lớp 5:	
 Số tiết
Loại văn bản
Học kì 1
Học kì 2
Cả năm
Kể chuyện(ôn tập)
3
3
Miêu tả
Miêu tả đồ vật (ôn tập)
Miêu tả cây cối (ôn tập)
Miêu tả con vật (ôn tập)
Miêu tả cảnh
Miêu tả người
14
8
4
3
3
4
7
4
3
3
18
15
Các loại văn bản khác
Báo cáo thống kê
Đơn
Thuyết trình, tranh luận
Biên bản
Chương trình hoạt động
Chuyển đoạn văn thành kịch
2
3
2
3(bỏ 1 tiết)
3
3
2
3
2
3(bỏ 1 tiết)
6
3
Tổng cộng số tiết
32
30
62
Các kiến thức làm văn:
Văn kể chuyện 
	+ Thế nào là kể chuyện?
	+ Nhân vật trong chuyện. Kể lại hành động của nhân vật. Tả ngoại hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện. Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật.
	+ Cốt truyện 
	+ Đoạn văn trong bài văn kể chuyện. Mở bài trong bài văn kể chuyện. Kết bài văn kể chuyện.
Văn miêu tả 
 + Khái niệm miêu tả
 + Miêu tả đồ vật
 + Miêu tả cây cối 
 + Miêu tả con vật
 + Tả cảnh
 + Tả người (Lớp 5)
Các loại văn bản khác 
	+ Viết thư
	+ Trao đổi ý kiến
	+ Giới thiệu hoạt động
	+ Tóm tắt tin tức
	+ Điền vào giấy tờ in sẵn.
	+ Báo cáo thống kê
 + Đơn
 	+ Thuyết trình, tranh luận (Lớp 5)
	+ Biên bản
	+ Chương trình hoạt động
	+ Chuyển đoạn văn thành kịch 
Các loại bài học:
+ Dạy lý thuyết 
+ Hướng dẫn thực hành 
2.1.2. Mục tiêu dạy học của phân môn TLV lớp 4 , lớp 5 gồm: [1]
* Về kĩ năng: Các kĩ năng làm văn:
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp
 + Phân tích đề bài 
 + Nhận diện kiểu văn bản
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp
 + Xác định dàn ý bài văn đó cho sẵn
 + Tìm và sắp thành dàn ý trong bài văn kể chuyện 
 + Quan sát đối tượng, tìm và sắp thành dàn ý trong bài văn kể chuyện
- Kĩ năng hiện thực hóa hoạt động giao tiếp:
 + Xây dựng đoạn văn .
 + Liên kết các đoạn văn thành bài văn.
- Kĩ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp.
 + Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt.
 + Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
	Như vậy, phân môn TLV giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: Nghe; nói; đọc; viết; kĩ năng dùng từ đặt câu, dùng các từ ngữ giàu âm thanh, hình ảnh, các từ ngữ có sức biểu hiện để giúp câu văn thêm sinh động, gợi cảm; dùng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ...) để viết văn (cả lớp 4 và lớp 5); dùng các phép liên kết đơn giản để liên kết các câu trong đoạn, các đoạn trong bài để bài văn có sức lôi cuốn, hấp dẫn (Lớp 5)... Tóm lại, phân môn TLV rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp qua việc chú trọng rèn đồng thời cả 4 kĩ năng: nghe, đọc (tiếp nhận văn bản), nói, viết (sản sinh văn bản). Điều này sẽ giúp học sinh không chỉ phát triển kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử (các kĩ năng quan trọng trong cuộc sống thường nhật) mà còn giúp học sinh phát triển tư duy, làm tiền đề cho việc đào tạo nhân tài cho đất nước. v..v...
2.1.3. Mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
2.1.4. Phân môn TLV còn giúp học sinh nâng cao óc thẩm mĩ và sự sáng tạo qua cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn sự vật. 
Cùng quan sát, chứng kiến, tiếp cận một sự vật hiện tượng nhưng mỗi cá nhân lại biểu hiện một suy nghĩ riêng, một cách nhìn riêng. Vì vậy, để tạo ra những cái “Tôi” sáng tạo ở mỗi cá nhân học sinh thì vai trò của việc dạy học phân môn TLV là vô cùng quan trọng. 
 2.1.5. Định hướng xây dựng biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn TLV lớp 4 - 5: 
	Tuy phân môn TLV có vai trò quan trọng như vậy nhưng đây lại là một môn học mà các giáo viên thường “Không hứng thú”dạy nhất và học sinh thường “Không ham mê ” học nhất vì bản thân nó là một môn học khó, dù các nhà viết sách đã cố gắng biên soạn ở mức để học sinh có thể tiếp thu được song đã là văn thì không có một công thức nào cả và viết văn cũng đòi hỏi sự không lặp lại (của người khác và của chính bản thân mình). Mặt khác, hiện nay PPDH phân môn TLV dù đã tường minh hơn so với chương trình cải cách song cơ sở vật chất và điều kiện, phương tiện dạy học phân môn TLV hầu như còn nghèo nàn, cập kênh, chưa đáp ứng nhu cầu dạy học nên chất lượng dạy học phân môn này hầu như chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra. 
	Vì tất cả những lí do đã nêu trên, ta thấy rằng: Việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học phân môn TLV là một đòi hỏi cấp thiết của các trường Tiểu học.
 2.2. Thực trạng 
 2.2.1. Hạn chế trong việc giảng dạy:
	Mặc dù đổi mới chương trình dạy học đã tiến hành nhiều năm, song để giáo viên thực sự đổi mới PPDH như yêu cầu đề ra là một việc vô cùng khó khăn vì kiến thức môn học tương đối khó, yêu cầu về kĩ năng tương đối cao mà kiến thức từ vựng và ngữ pháp của học sinh còn hạn chế, trong khi đó vốn kiến thức về văn và kĩ năng viết văn của giáo viên cũng còn nhiều vấn đề phải bàn vì thực tế có rất ít giáo viên có năng khiếu viết văn, ... Bởi vậy, giáo viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức thì mới dạy tốt phân môn này được. Đặc biệt, với những đề bài mang tính chất sáng tạo như: Cho sẵn cốt truyện, hoặc cho sẵn phần kết thúc truyện, hoặc cho sẵn phần mở đầu truyện hoặc tự tưởng tượng cốt truyện dựa vào tình huống gợi mở hoặc đề bài yêu cầu học sinh tả vật không quan sát trực tiếp mà được gợi ra nhờ một đoạn văn, bài thơ, câu chuyện như: 
 	Ví dụ: Một buổi đến trường, em bỗng nghe thấy tiếng ve râm ran và thấy những chùm hoa phượng nở đỏ. Hãy tả lại cảnh đó và cảm xúc của em khi mùa hè đến.
	Đây là những đề bài mang tính sáng tạo cao yêu cầu học sinh chú ý tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh đó, làm cho nó khác với cảnh khác. Lồng với tả người, tả vật để bài văn sinh động. Tả không phải chỉ để tả mà qua tả người nghe, người đọc thấy được cảm xúc của người viết ... Nói thì dễ nhưng những điều này rất trừu tượng với học sinh nên học sinh thụ động, nhiều khi còn trông chờ nhiều ở sự giúp đỡ của GV. Bởi vậy kết quả học tập chưa cao. Vì thế, học sinh ngại học TLV và giáo viên "e ngại" dạy TLV vì lẽ đó.
 Mặt khác, mục tiêu của phân môn TLV trong chương trình SGK là giúp học sinh rèn luyện đều cả bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: Nghe, nói, đọc, viết nhưng hiện nay khi dạy TLV, giáo viên thường thiên về dạy và rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết nhiều hơn. Điều đó dẫn đến tình trạng học sinh thường có kĩ năng nói kém hơn kĩ năng viết mà trong cuộc sống hiện nay, kĩ năng nói, giao tiếp, ứng xử trực tiếp lại vô cùng quan trọng bởi đó là kĩ năng sống của con người. Do vậy, việc dạy học TLV vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu mà chương trình đề ra.
	Bên cạnh đó, việc sử dụng đồ dùng dạy học phân môn TLV của giáo viên cũng còn nhiều hạn chế, nhiều khi chưa khai thác hết được công dụng của đồ dùng dạy học nên dẫn đến hiệu quả tiết dạy chưa cao.
 Qua kiểm tra, khảo sát tôi thấy những khó khăn của giáo viên khi dạy học phân môn TLV là:
STT
Hạn chế tồn tại
Tỉ lệ (%)
Xây dựng kế hoạch bài học theo hướng đổi mới PPDH
74.5
Lựa chọn và sử dụng PPDH (Phương pháp dạy học)
55.2
Kĩ năng sử dụng TBDH (Thiết bị dạy học)
67.5
Phối hợp các PPDH tích cực
75.5
Thiếu TBDH
78.0
Nguyên nhân của tình trạng trên là:
 - Thứ nhất: Công tác bồi dưỡng giáo viên còn nhiều hạn chế, nội dung bồi dưỡng về dạy học phân môn TLV chưa cụ thể, sát sao với tình hình thực tế của từng địa phương.
 - Thứ hai: TBDH thiếu về số lượng, đặc biệt thiếu các TBDH hiện đại.
 - Thứ ba: Kĩ năng sử dụng PPDH, sử dụng TBDH và kĩ năng tổ chức các hoạt động, các hình thức tổ chức hoạt động học tập trong tiết TLV còn hạn chế. Nhiều hoạt động học tập chưa giúp học sinh tìm tòi, khám phá ra cái mới, cái hay, cái sáng tạo của riêng mình mà chỉ mang tính giúp giáo viên biểu diễn PPDH. 
 - Thứ tư: Công tác kiểm tra, đánh giá dạy học phân môn TLV của giáo viên nhiều khi còn mang tính cảm tính, chưa toàn diện, thiếu chính xác, thiếu tính khách quan.
2.2.2. Công tác chỉ đạo của CBQL để nâng cao chất lượng giảng dạy:
Chính vì những tồn tại trên nên trong những năm học qua, mặc dù đã rất nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng dạy học song hiệu quả thực sự khi dạy học phân môn TLV vẫn chưa tiến triển được là bao. Đây là vấn đề mà các nhà quản lí trăn trở, suy nghĩ, tìm cách nâng cao chất lượng dạy học phân môn này để việc dạy học thực sự là “Dạy thực – học thực” như cuộc vận động “ Hai không – bốn nội dung” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra.
Công tác chỉ đạo của CBQL để nâng cao chất lượng dạy học phân môn TLV ở đây là :
	1. Nhận thức của cán bộ quản lí và giáo viên về mục tiêu phân môn TLV và hiệu quả, chất lượng dạy học.
	2. Việc đổi mới cách quản lí, chỉ đạo dạy học môn Tiếng Việt nói chung và cách quản lí chỉ đạo dạy học phân môn TLV nói riêng.
	3. Dạy phân môn TLV như thế nào được gọi là thực sự đổi mới PPDH? 
	4. Các biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và chất lượng dạy học phân môn TLV nói riêng.
	5. Làm thế nào để tạo động lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy nhằm nâng cao trách nhiệm của họ với học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy?
	6. Cách đánh giá chất lượng dạy học phân môn TLV như thế nào là phù hợp, sát với thực tế địa phương và phù hợp với mục tiêu mà chương trình đề ra?
	7. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học và nâng cao chất lượng dạy học như thế nào là phù hợp? ...
Từ thực trạng trên, với việc nhận thức được những yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo trong sự nghiệp giáo dục nói chung và phân môn TLV nói riêng, với lương tâm và trách nhiệm của CBQL trường Tiểu học, qua quá trình vừa nghiên cứu vừa thực hành, tôi đã đúc kết được: “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 4 và 5” với hi vọng sẽ tháo gỡ được một phần khó khăn, lúng túng cho giáo viên khi dạy phân môn này, nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học TLV; giúp học sinh nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt, tạo tiền đề học tốt các môn học khác và làm nền tảng cho các cấp học trên.
2.3. Các giải pháp, biện pháp và tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng dạy học phân môn TLV
 Sau quá trình điều tra, tìm hiểu và thực hành, tôi đã mạnh dạn đưa ra những biện pháp chỉ đạo để nâng cao chất lượng dạy học phân môn này với hi vọng nó có thể áp dụng cho những trường có điều kiện dạy học như trường tiểu học Xuân Lộc. Cụ thể: 
 * Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh:
	* Đối với giáo viên: 
Ta thấy rằng: "Nhận thức đúng thì hành động mới đúng". Bởi vậy, cần làm cho giáo viên thấy rõ vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc dạy học môn tiếng Việt nói chung và phân môn TLV nói riêng. 
- Sử dụng mục tiêu phân môn TLV lớp 4; 5 để nâng cao nhận thức: 
 Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, làm cho giáo viên nắm vững mục tiêu cần đạt của phân môn TLV để giáo viên có hướng thực hiện mục tiêu. Cụ thể:
Mục tiêu về kiến thức: 
Chương trình chỉ yêu cầu cung cấp cho học sinh lớp 4; 5 những kiến thức sơ giản về liên kết câu, liên kết đoạn văn; kiến thức về văn tả người, văn tả cảnh, văn bản thông thường: đơn, báo cáo thống kê, biên bản, chương trình hoạt động; một số quy tắc giao tiếp trong trao đổi nhóm, thảo luận.
Mục tiêu về kĩ năng: 
+ Viết: Yêu cầu học sinh có kĩ năng lập dàn ý cho bài văn miêu tả; viết đoạn văn, bài văn miêu tả theo dàn ý; viết biên bản một cuộc họp, một vụ việc và viết tóm tắt văn bản (có độ dài vừa phải).
+ Nghe: Nghe và ghi chép một số thông tin, nhân vật, sự kiện,...
 + Nói: Giới thiệu về lịch sử, văn hóa, các nhân vật tiêu biểu,...của địa phương.
	* Đối với học sinh: 
Qua các tiết dạy và các buổi sinh hoạt tập thể, giáo viên cần làm cho các em thấy được tầm quan trọng của việc học TLV trong đời sống của các em để các em nâng cao ý thức tự học, tự trau dồi, rèn luyện các kĩ năng sử dụng tiếng Việt và ý thức quan sát, ghi chép, tìm tư liệu, sưu tầm đồ dùng học tập, ...tạo điều kiện thuận lợi hơn cho GV khi giảng dạy môn học này.
- Đề cao tinh thần trách nhiệm của giáo viên: 
 Cần làm cho giáo viên hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong giảng dạy nếu thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng dạy học, đạt mục tiêu đề ra. 
 * Giải pháp 2: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường:
	Như trên đã nói: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng dạy học”. Bởi vậy, muốn nâng cao chất lượng dạy học thì cần tăng cường công tác bồi dưỡng giáo viên. Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy giáo viên còn gặp khó khăn trong dạy học phân môn TLV. Vì vậy cần tăng cường công tác bồi dưỡng giáo viên với một số nội dung chủ yếu và hình thức phù hợp.
	Nội dung bồi dưỡng: 
	- Nâng cao kiến thức môn Tiếng Việt cho giáo viên để giáo viên nắm chắc kiến thức, từ đó mà xử lí tốt các tình huống dạy học trên lớp và nâng cao chất lượng dạy học các phân môn trong đó có phân môn TLV.
 - Nâng cao kĩ năng xây dựng kế hoạch bài học theo hướng đổi mới PPDH, kĩ năng lựa chọn và sử dụng các PPDH phù hợp với đặc trưng môn học, kĩ năng sử dụng TBDH và kĩ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chủ yếu trong tiết TLV.
Hình thức bồi dưỡng:
Để nâng cao kiến thức và kĩ năng dạy học cho giáo viên, đầu mỗi năm học, tôi thường tổ chức các chuyên đề cụ thể như: Làm thế nào để rèn cho học sinh cách mở bài theo kiểu gián tiếp một cách hấp dẫn nhất nhằm hút hồn người đọc? Cách kết bài theo kiểu mở rộng trong bài văn miêu tả như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất? Hoặc: Làm thế nào nâng cao kĩ năng nói cho học sinh trong các tiết TLV,...nhằm giúp giáo viên bổ sung các kiến thức, các kĩ năng cần thiết khi tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp. 
 Cụ thể, về mặt kiến thức và kĩ năng viết, tôi lưu ý giáo viên hướng dẫn học sinh: 
 - Đối với thể loại tả người, cần chú ý tả hình dáng, hoạt động, tính tình. Ba mặt này thường thống nhất với nhau làm nổi rõ tính cách, thần thái của người định tả. Nên hướng cho học sinh cách viết đan xen, không tách thành ba phần riêng biệt hình dáng, hoạt động hay tính tình. Những nét chọn để tả không nhất thiết phải đẹp hay quá đẹp nhưng nhất thiết phải là những nét riêng biệt và không bị xáo, ... 
 - Đối với những đề bài mang tính sáng tạo cao, yêu cầu học sinh chú ý tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh đó, làm cho nó khác với cảnh khác. Lồng với tả người, tả vật để bài văn sinh động. Tả không phải chỉ để tả mà qua tả người nghe, người đọc thấy được cảm xúc của người viết, ... 
	Sau đây là một số biện pháp nhỏ mà tôi đã áp dụng chỉ đạo, hướng dẫn cho giáo viên con đường, cách thức cụ thể cách dạy các dạng bài TLV nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn này qua các chuyên đề như sau: 
 + Biện pháp 1: Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng làm văn kể chuyện thông qua các bài thơ: 
	Ở Tiểu học, Văn kể chuyện được giảng dạy từ lớp 3 nhưng trọng tâm của thể loại này được học ở lớp 4. Kiểu bài văn kể chuyện được xây dựng với những đề bài cụ thể và những kĩ năng thực hành đặt ra cho từng đề bài cụ thể đó.
 Ở các tiết học chính khoá, giáo viên đã dạy cho học sinh một số kĩ năng kể chuyện như cốt chuyện, nhân vật trong truyện, tả ngoại hình nhân vật, tả hoạt động, tả nội tâm...
 Thông qua một số dạng đề bài như: Kể lại chuyện đã nghe, đã học, kể lại chuyện được chứng kiến tham gia, kể chuyện thay lời nhân vật, kể chuyện dựa vào cốt chuyện có sẵn, viết tiếp câu chuyện cho hoàn chỉnh... Học sinh được rèn kỹ năng kể chuyện khá cụ thể cho từng kiểu, từng dạng. Tuy nhiên thời gian dành cho luyện tập của từng dạng không nhiều. Các dạng bài kể chuyện này còn mờ nhạt trong học sinh, đặc biệt là học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành. Trong các tiết học ở buổi 2 tôi đã chỉ đạo giáo viên phụ trách thực hiện một số biện pháp giúp HS 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_nang_cao_chat_luong_day_hoc_ph.doc