SKKN Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở trong phong trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở Trường Tiểu học

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở trong phong trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở Trường Tiểu học

Như chúng ta đã biết, “Giỏi việc trường - đảm việc nhà” là một trong những phong trào thi đua trong cán bộ - giáo viên - công nhân viên ngành Giáo dục. Công đoàn ngành phối hợp chặt chẽ với nhà trường tổ chức chỉ đạo thực hiện các phong trào, các cuộc vận động nhằm từng bước nâng cao nhận thức cho CBGV - CNV lao động, phù hợp với các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong những năm qua, phong trào đã được triển khai ở các cơ quan đơn vị trường học và đã được đông đảo chị em phụ nữ ngành giáo dục hưởng ứng. Có thể nói, phong trào đã thực sự đi vào đời sống của đội ngũ nữ cán bộ giáo viên, nhân viên, tạo điều kiện cho chị em phấn đấu vươn lên về mọi mặt, quyết tâm khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. Phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới giáo dục và tạo dựng nên phong cách, lối sống chuẩn mực của nữ nhà giáo. Vì mang tính đặc thù giới sâu sắc nên phong trào đã phát huy được vai trò, tiềm năng to lớn của nữ cán bộ giáo viên nhân viên ngành giáo dục trong quá trình công tác cũng như trong xây dựng hạnh phúc gia đình.

doc 17 trang thuychi01 13125
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở trong phong trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở Trường Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. MỞ ĐẦU. 
1
1.1. Lí do chọn đề tài 
2
1.2. Mục đích nghiên cứu 
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2
2.1. Cơ sở lí luận. 
3
2.2. Thực trạng 
3
2.3. Các giải pháp 
5
2.3.1. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn và cán bộ làm công tác nữ công 
5
2.3.2. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ nữ CB-GV-NV
5
2.3.3. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV – CNV trong nhà trường “Giỏi việc trường”
6
2.3.4. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV – CNV trong nhà trường “ Đảm việc nhà” 
6
2.3.5. Duy trì các hoạt động và thường xuyên tổ chức các hội thi, giao lưu với hình thức và nội dung phong phú, hấp dẫn tạo khí thế thi đua sôi nổi thực hiện phong trào. 
8
2.3.6.Thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nữ CBGV - NV. 
8
2.3.7. Động viên khen thưởng kịp thời và nêu gương các điển hình tiên tiến trong các phong trào. 
13
2.4. Hiệu quả. 
14
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 
17
3.1. Kết luận 
17
3.2. Kiến nghị 
18
1. MỞ ĐẦU
1. 1.Lí do chọn đề tài.
 Như chúng ta đã biết, “Giỏi việc trường - đảm việc nhà” là một trong những phong trào thi đua trong cán bộ - giáo viên - công nhân viên ngành Giáo dục. Công đoàn ngành phối hợp chặt chẽ với nhà trường tổ chức chỉ đạo thực hiện các phong trào, các cuộc vận động nhằm từng bước nâng cao nhận thức cho CBGV - CNV lao động, phù hợp với các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong những năm qua, phong trào đã được triển khai ở các cơ quan đơn vị trường học và đã được đông đảo chị em phụ nữ ngành giáo dục hưởng ứng. Có thể nói, phong trào đã thực sự đi vào đời sống của đội ngũ nữ cán bộ giáo viên, nhân viên, tạo điều kiện cho chị em phấn đấu vươn lên về mọi mặt, quyết tâm khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. Phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới giáo dục và tạo dựng nên phong cách, lối sống chuẩn mực của nữ nhà giáo. Vì mang tính đặc thù giới sâu sắc nên phong trào đã phát huy được vai trò, tiềm năng to lớn của nữ cán bộ giáo viên nhân viên ngành giáo dục trong quá trình công tác cũng như trong xây dựng hạnh phúc gia đình.   
 Trường Tiểu học nơi tôi công tác, CBGV - NV năm học 2016 - 2017, số lượng đoàn viên nữ 32/33 chiếm tới 96,9%. Đây là lực lượng quan trọng, lực lượng chính trong nhà trường. Tôi nhận thấy, nhà trường có hoàn thành được nhiệm vụ hay không phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động nữ này. Thế nhưng, trong số đó, có tới 2/3 số chị em là vợ bộ đội. Vì đặc thù công việc, các anh hay phải công tác xa nhà, nay đây mai đó. Do nhiệm vụ bảo vệ đất nước, các anh ít có thời gian hỗ trợ chị em trong công việc gia đình. Thực sự các chị rất vất vả, nhất là những chị em đang còn trẻ, trong độ tuổi sinh nở, con còn nhỏ, bố mẹ (chồng), vợ ở xa hoặc đã già yếu. Và chính bản thân tôi cũng có chồng là bộ đội nên tôi hiểu hơn ai hết nỗi vất vả của các chị. Khó khăn đặt ra là các chị phải giải quyết sao cho mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu ngày càng cao về chuyên môn với một bên là thiên chức làm vợ, làm mẹ không ai thay thế được, để vừa “Giỏi việc trường”, vừa “Đảm việc nhà”. Đa số nữ CBGV thường có không ít đắn đo cân nhắc giữa gia đình và sự nghiệp, ít có sự phấn đấu trong phong trào chung.Việc đẩy mạnh được phong trào “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” trong đội ngũ CBGV - NV nhà trường còn gặp trở ngại. Nhưng tôi - một phó hiệu trưởng kiêm công tác chủ tịch công đoàn, đã sớm ý thức được tầm quan trọng của chị em, của phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”; Ý thức được rằng để trở thành người phụ nữ vừa “Giỏi việc trường” vừa “Đảm việc nhà” không phải chỉ một sớm một chiều mà là cả một quá trình phấn đấu không ngừng, trong đó sự nhận thức đúng đắn về phong trào là điều cực kì quan trọng. 
 Với bề dày gần 20 năm trong BCH trong đó 13 năm là Chủ tịch công đoàn, bản thân tôi đã trăn trở, suy nghĩ nhiều về việc khắc phục những khó khăn trong công đoàn nhà trường nhằm nâng cao chất lượng phong trào “hai giỏi” của công đoàn ngành đề ra. Xuất phát từ những lí do trên, đầu năm học 2014 - 2015, tôi đã quyết tâm chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở trong phong trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở Trường Tiểu học” để đầu tư nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
 Từ thực tế công tác chỉ đạo hoạt động phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” của công đoàn nhà trường, tôi muốn nghiên cứu để tìm ra những biện pháp hữu hiệu, cách làm khả quan để nâng cao tầm nhận thức của chị em về bản chất của phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, nâng cao chất lượng công việc của chị ở trường cũng như ở nhà, nâng cao chất lượng của phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở đơn vị mình. Đó là những điều tôi muốn đạt được trong đề tài này. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 Đề tài tập trung vào nghiên cứu những yêu cầu đề ra của phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ; nghiên cứu thực trạng cuộc sống của chị em, thực trạng công việc của chị em, thực trạng của phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” trong đơn vị mình. Từ đó, tôi nghiên cứu những điểm mạnh - yếu, những thuận lợi khó khăn, nghiên cứu tâm lí của mỗi đoàn viên nữ. Đối tượng của tôi còn hướng đến là những việc làm thiết thực nâng cao chất lượng công tác cũng như đời sống của chị em. Những việc làm ấy còn là để nâng cao chất lượng phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp khảo sát;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp đối chứng;
- Phương pháp thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
 Để thực hiện tốt phong trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, trước hết bản thân và mỗi CBGV - CNV trong nhà trường cần hiểu:
* Mục tiêu phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”. Đó là:
- Động viên nữ CBGV - NV trong công đoàn nhà trường phát huy tài năng trí tuệ, công sức, kinh nghiệm giảng dạy góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2010 - 2020, và đặc biệt là giáo dục của địa phương trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong công đoàn nhà trường theo 5 tiêu chí: “Yêu nước; Có trình độ chuyên môn vững vàng, năng động, sáng tạo và hoàn thành tốt công tác được giao; Có sức khỏe; Có lối sống văn hóa và tấm lòng nhân hậu; Quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng”, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sáng, giản dị, lành mạnh của nhà giáo.
- Vận động chị em lao động tích cực, tham gia các phong trào, các cuộc vận động, xây dựng tập thể, xây dựng công đoàn nhả trường đoàn kết, phát triển vững mạnh. Xây dựng gia đình nhà giáo theo tiêu chí “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
* Nội dung phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”
 Bản thân giúp chị em trong công đoàn nhà trường hiểu được nội dung của phong trào. Đó là:
- Cần phải thi đua giảng dạy và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với hiệu quả, chất lượng cao.
- Động viên chị em tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục và hội nhập; chủ động tham gia đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở tất các các môn học. Quan tâm và tạo môi trường thuận lợi cho chị em học tập, rèn luyện phấn đấu trở thành người phụ nữ có tri thức, giàu nghị lực, sẵn sàng phục vụ sự nghiệp giáo dục phát triển toàn diện.
- Tích cực tham gia công tác quản lý và nghiên cứu khoa học, nhiệt tình trong công tác đoàn thể, công tác xã hội hóa giáo dục, đoàn kết xây dựng nhà trường, đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ quan văn hóa.
- Tổ chức tốt cuộc sống gia đình, nuôi dạy con ngoan, học giỏi, nghiêm túc thực hiện pháp lệnh dân số, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình với chuẩn mực “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Tích cực tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội và HIV/AIDS.
- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ giáo dục ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
2.2. Thực trạng. 
 Đầu năm học 2014 - 2015, công đoàn trường tôi có 37 đoàn viên. 
Trong đó đoàn viên nữ : 37 ( chiếm 100%). Cụ thể;
Đối tượng
SL
Đảng viên
Trình độ CM
Trình độ quản lý
Trình độ
chính trị
Đang đi học
ĐH
CĐ
T.C
QLGD
Cao cấp
Tr. cấp
Sơ cấp
CBQL
3
3
3
 2/3
 2
1
GVVH
24
16
19
3
2
3
GVđặc thù
8
2
6
1
1
TV-TB
1
1
Kế toán
1
1
Tổng
37
21
28
4
5
 2
0
 2
0
4
 Kết quả công tác chuyên môn và các phòng trào của công đoàn nhà trường năm học trước như sau:
 CSTĐ
GV giỏi
SKKN
Học sinh giỏi
Trường
Huyện 
Tỉnh
Huyện 
Tỉnh
Huyện 
Tỉnh
4
17
 2/3
0
6
4
32
0
ĐV xuất sắc
GVT- ĐVN
Gia đình
NGVH
GĐ hiếu học
Kinh tế gia đình
Con CBGV
đạt HS giỏi
Giàu
Khá
TB
Khó
khăn
Trường
Huyện
Tỉnh
Đậu
ĐH
23
62,3%
23
62,3%
34
91,9%
0
2
5,4%
15
40,6%
18
48,6%
2
5,4%
17/22
=77,2%
3/5
60%
2/2
100%
2.1.1 Về trình độ, nhận thức.
Đầu năm học 2014 - 2015, công đoàn nhà trường có 28/37 chị em có trình độ đại học, 9 chị em có trình độ cao đẳng, trung cấp nhưng đang trong thời gian đi học nâng cao trình độ chuyên môn lên đại học. Xét về chuyên môn thì đại đa số chị em có trình độ trên chuẩn. Tuy nhiên, do các chị em đang còn có cách sống bằng lòng với hiện tại: ngày hai buổi đến trường, không tham quan, học hỏi, trau dồi thêm hiểu biết về cuộc sống. Vì vậy, kiến thức xã hội của các chị còn hạn hẹp gói gọn trong chương trình đủ để dạy học khối lớp mình đảm nhiệm, kĩ năng ứng phó với những tình huống trong các tiết dạy còn chưa cao.
Công việc gia đình: một số chị em tổ chức cuộc sống gia đình chưa khoa học, sắp xếp bố trí thời gian các công việc chưa hợp lý, chưa chú ý tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho gia đình cũng như sức khỏe của chính bản thân mình. 
Một số chị em kĩ năng giao tiếp ứng xử ngoài xã hội, với đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh và trong gia đình vẫn chưa mang tính sư phạm...Một phần đó cũng do nhận thức của một bộ phận nhỏ giáo viên và áp lực của công việc. 
Một bộ phận đoàn viên có trình độ nhận thức về tư tưởng chính trị, đường lối của Đảng và Nhà nước còn hạn chế. Từ đó dẫn đến việc chấp hành các nội quy, quy định của khu phố, thôn xóm nơi mình cư trú còn chưa tốt.
2.2.2. Về chuyên môn.
Thực tế về bằng cấp, đã có trên 2/3 chị em có trình độ đại học. Tuy nhiên, do quá trình bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, các chị tham gia các lớp tại chức vừa học, vừa làm nên kết quả kiến thức, kĩ năng và phương pháp chị em lĩnh hội được chưa cao. 
Về kiến thức chuyên môn, nhiều chị em còn chưa thực sự vững chắc. Trong nhiều kì kiểm tra giáo viên giỏi cấp trường, còn nhiều chị em đạt điểm chưa cao. Điều đó chứng tỏ kiến thức của chị em còn hạn chế. Đa số, chị em chỉ nắm được kiến thức của chương trình khối lớp mình dạy chứ chưa có kiến thức mang tính hệ thống cả cấp học. Nhiều chị em, trong khi dạy còn chưa hiểu được dụng ý của sách, chưa khai thác triệt để kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa cũng như việc liên hệ thực tế trong bài dạy
Về phương pháp, nhiều chị em chưa nắm vững phương pháp, hình thức tổ chức lớp cho phù hợp. Trong nhiều tiết dạy, chị em mắc lỗi những sơ giản trong truyền đạt kiến thức, sử dụng phương truyền thống, giáo viên nói, học sinh nghe, làm thay học sinh, áp đặt kiến thức cho học sinh. Nhiều chị còn lúng túng khi sử dụng các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính cực của học sinh.
Kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học có những chuyển biến đáng kể nhưng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kì đổi mới hiện nay. Một số chị chỉ mới biết soạn giáo án bằng máy tính chứ chưa tiếp cận được với việc soạn giáo án điện tử và sử dụng máy chiếu đa năng cũng như truy cập Intenet phục vụ công tác giảng dạy cũng như các nhu cầu cần thiết khác. 
2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
2.3.1. Xấy dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn và cán bộ làm công tác nữ công.
 Để chỉ đạo tốt phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” nói riêng cũng như các phong trào thi đua trong nữ CBGV - NV nói chung nhằm đáp ứng được với các chuẩn mực của người phụ nữ ngành giáo dục trong thời kì CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công đoàn năng động, nhiệt tình, có chuyên môn và có sức khỏe tốt. Vì vậy, ngay từ Đại hội công đoàn nhiệm kì 2013 - 2018, công đoàn nhà trường đã lựa chọn những người có năng lực, tâm huyết, gương mẫu và có uy tín cao để bầu vào BCH công đoàn và sau đó lựa chọn những nữ CBGV - NV có uy tín với đồng nghiệp, biết tranh thủ sự ủng hộ, biết lắng nghe và nắm bắt tâm tư nguyện vọng của chị em... để bầu vào ban nữ công, các tổ trưởng, tổ phó công đoàn. 
 Để làm tốt được công tác nữ trong nhà trường, bản thân tôi xin ý kiến chỉ đạo của chi ủy, chi bộ nhà trường mở các buổi tập huấn, bồi dưỡng cho chị em trong Ban nữ công để chị em nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương pháp tổ chức các hoạt động nữ công... Đồng thời giúp họ hiểu rõ về nội dung phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, nắm vững các tiêu chuẩn thi đua, các chuẩn mực của người phụ nữ ngành giáo dục trong thời kì CNH, HĐH đất nước với tổng số 04 buổi. Sau khi tập huấn, nhận thức của chị em đã được nâng lên, chị em đã hiểu được nội dung và làm việc tốt hơn. Sau đó, tôi chỉ đạo Ban nữ công xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể, phù hợp theo từng năm học, từng học kì; tổ chức triển khai cho đội ngũ CBGV - CNV trong nhà trường cách tổ chức thực hiện các phong trào sao cho có hiệu quả. 
 Ngoài ra, căn cứ vào chương trình công tác của Công đoàn Giáo dục huyện và đặc điểm tình hình đơn vị, tôi cùng với BCH Công đoàn chỉ đạo Ban nữ công phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tổ chức thực hiện phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” lồng ghép với các phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Qua đó, chị em hiểu rõ về mối quan hệ giữa các phong trào, các cuộc vận động nhằm thực hiện tốt hoạt động công đoàn nhà trường.
 Để đội ngũ BCH làm tốt công tác công đoàn trong nhà trường, bản thân đã chủ động trích kinh phí mua thêm các tài liệu liên quan đến hoạt động công đoàn và công tác nữ công để cán bộ công đoàn, ban nữ công bổ sung thêm kiến thức, giúp họ tổ chức tốt các phong trào thi đua trong nhà trường.
2.3.2. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ nữ cán bộ giáo viên nhân viên.
 Để giúp chị em hiểu, thực hiện tốt phong trào “Giỏi việc trường - đảm việc nhà” và các phong trào, các cuộc vận động khác nhằm mục đích xây dựng các chuẩn mực của người phụ nữ trong thời kì đổi mới, trước hết, bản thân phải làm tốt công tác tuyên truyền để mỗi CBGV - NV hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung và tác dụng của các phong trào, các cuộc vận động cũng như các chuẩn mực của người phụ nữ. Tôi đã chỉ đạo cho Ban nữ công quán triệt nội dung, các tiêu chuẩn thi đua đối với tập thể, cá nhân, các chuẩn mực của người phụ nữ ngành giáo dục đến từng CBGV - NV. Từ đó mỗi cá nhân xác định rõ hơn nhiệm vụ của mình và có ý thức trách nhiệm cao trong việc thực hiện.
 Đồng thời cùng với BCH công đoàn, tổ chức triển khai cho chị em học tập nghị quyết của công đoàn cấp trên, nghị quyết của đại hội phụ nữ về các nội dung có liên quan đến lao động nữ, CBVC, lao động của ngành. Tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp lệnh hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động sửa đổi, bổ sung, Luật Giáo dục và các văn bản có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của lao động nữ trong tình hình mới, luật Bình đẳng giới, luật phòng chống bạo lực gia đình, nội dung pháp lệnh dân số, các chuẩn mực xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững; chuẩn mực của người phụ nữ Việt Nam “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có tri thức, có sức khoẻ, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng”....dưới nhiều hình thức như triển khai trong các cuộc họp công đoàn , trong các buổi sinh hoạt nữ công ...
 Tuyên truyền phòng chống tệ nạn xã hội cho nữ CBGV-NV như phối hợp với Hội phụ nữ Thị trấn tổ chức mít tinh, nói chuyện về phòng chống ma tuý, HIV/AIDS. 
 Bản thân tôi thường xuyên động viên nữ CBGV - NV gương mẫu và tích cực vận động tuyên truyền thực hiện pháp lệnh dân số, kế hoạch hoá gia đình, xây dựng gia đình nhà giáo văn hoá. Chủ động thực hiện và khéo léo vận động gia đình thực hiện đúng chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và các quy định của địa phương như: công tác đóng góp, tham gia các hoạt động ở khu dân cư, tham gia công tác xã hội hóa, ủng hộ để nâng cấp các công trình đường, trường, trạm...CBGV cần gương mẫu trong các hoạt động này. Ngoài ra, bản thân động viên chị em cần xây dựng mối quan hệ đoàn kết thân ái, giúp đỡ bà con hàng xóm láng giềng; xây dựng cuộc sống ấm no, vươn lên làm giàu chính đáng, quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái chăm ngoan, học giỏi.
 Để thực hiện các phong trào có hiệu quả, đầu các năm học tôi cùng với BCH công đoàn, Ban nữ công tổ chức cho nữ CBGV - NV đăng kí các danh hiệu thi đua như “Đoàn viên xuất sắc”, “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”,“Gia đình nhà giáo văn hoá”. Đồng thời mỗi CBGV - NV làm một bản cam kết về việc chấp hành và thực hiện tốt pháp lệnh dân số cũng như đăng kí việc sinh đẻ theo đúng kế hoạch (với đoàn viên chỉ mới một con hoặc đoàn viên chưa có con mới lập gia đình)...để chị em phấn đấu.
2.3.3. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV - NV “ Giỏi việc trường”.
 Trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ CBGV mà con đường hiệu quả nhất là đẩy mạnh phong trào tự học, tự bồi dưỡng. Đây cũng là một nội dung quan trọng của phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”. Vì vậy để làm tốt nội dung này, tôi đã phối hợp với chuyên môn nhà trường xây dựng kế hoạch, động viên, tạo điều kiện, bố trí sắp xếp thời gian, chuyên môn để chị em được tham gia các lớp Đại học tại chức, Trung cấp chính trị, Quản lý giáo dục...để nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị...cho nữ CBGV - NV. Động viên các chị em dạy thay, giúp đỡ việc gia đình cho những chị em đi học để họ yên tâm học tập. Đồng thời tham mưu với nhà trường hỗ trợ một phần kinh phí mua tài liệu để chị em có điều kiện học tập tốt hơn.
 Để giúp chị em nâng cao về mặt kiến thức và tham dự tốt các kì thao giảng giáo viên giỏi, tôi đã tổ chức cho chị em tự học giải Toán, Tiếng Việt nâng cao theo các chuyên đề. Các chị em đều có vở tự học và dành thời gian để học thực sự. Trong quá trình học vấn đề gì chưa hiểu có thể trao đổi hoặc đưa ra các buổi sinh hoạt chuyên môn cùng nhau thảo luận giải quyết những vướng mắc góp phần nâng cao kiến thức cho chị em.
Ngoài việc tạo điều kiện để giáo viên được tham gia các lớp học nâng cao trình độ, động viên các chị tự học, tự bồi dưỡng, để đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường, tôi đã cùng chuyên môn nhà trường chỉ đạo cho nữ CBGV tham gia đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở tất cả các môn, các khối lớp.Với những bài dạy khó, chúng tôi tổ chức dạy thử nghiệm để chị em được dự giờ học hỏi lẫn nhau. Sau những tiết dạy đó chúng tôi tổ chức rút kinh nghiệm, phân tích cho chị em thấy dạy như thế nào là hiệu quả để chị em có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy của mình. Trong quá trình giảng dạy cũng có những chị em còn lúng túng khi sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hoặc sử dụng đồ dùng dạy học chưa hợp lý, chưa đúng lúc, đúng chỗ, quản lý học sinh chưa tốt ...tôi đã trực tiếp góp ý đến từng giáo viên. Tôi chủ động phối hợp với chuyên môn thường xuyên kiểm tra, dự giờ, thăm lớp để đánh giá đúng những ưu khuyết điểm của họ, từ đó giúp giáo viên thực hiện giờ dạy được chất lượng, hiệu quả hơn.
Hằng năm phối hợp với chuyên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_hoat_dong_cong_doan_co_so_tron.doc