SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4
Trong chương trình Giáo dục Tiểu học, các môn học nói chung và môn Toán nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành trí tuệ và nhân cách con người. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện cho học sinh tính độc lập, linh hoạt, sáng tạo cùng với phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh. Ở bậc học tiểu học được chia thành 5 khối lớp, các kiến thức Toán học được làm quen và nâng cao dần về độ khó về kiến thức cũng như kĩ năng. Có thể nói, chương trình Toán ở Tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 ở các khối lớp 1,2,3 và giai đoạn 2 ở khối lớp 4,5. Trong đó, giai đoạn 1 được xem là giai đoạn học tập cơ bản, còn giai đoạn 2 là giai đoạn học tập sâu ( so với giai đoạn trước). Hoạt động chủ đạo của học sinh ở giai đoạn này là hoạt động học. Nếu như ở các lớp 1,2,3, học sinh chủ yếu nhận biết các khái niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thật hoặc mô hình, tranh ảnh,.chủ yếu nhận biết cái riêng lẻ, cái toàn thể . Nhưng đến giai đoạn 2, ở lớp 4,5, các em được học tập các kiến thức và kĩ năng khái quát hơn, tường minh hơn . Học sinh học tập thông qua hoạt động thực hành, luyện tập của cá nhân hay nhóm để từ đó có thể tự mình phát hiện ra các kiến thức, kỹ năng mà giáo viên cần dạy. Nhận thức của học sinh ở giai đoạn này bắt đầu chuyển sang nhận thức lý tính trên cơ sở quan sát, phân tích, so sánh các hiện tượng và sự kiện trong học tập và trong đời sống. Tính trừu tượng, khái quát của nội dung môn Toán ở các lớp 4,5 được nâng lên một bậc.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH MÔN TOÁN LỚP 4 Người thực hiện : Lê Thị Tuyết Chức vụ : Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Xuân Bái - Thọ Xuân SKKN thuộc lĩnh vực(môn): Toán THANH HÓA NĂM 2017 PHẦN I: MỞ ĐẦU LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong chương trình Giáo dục Tiểu học, các môn học nói chung và môn Toán nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành trí tuệ và nhân cách con người. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện cho học sinh tính độc lập, linh hoạt, sáng tạo cùng với phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh. Ở bậc học tiểu học được chia thành 5 khối lớp, các kiến thức Toán học được làm quen và nâng cao dần về độ khó về kiến thức cũng như kĩ năng. Có thể nói, chương trình Toán ở Tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 ở các khối lớp 1,2,3 và giai đoạn 2 ở khối lớp 4,5. Trong đó, giai đoạn 1 được xem là giai đoạn học tập cơ bản, còn giai đoạn 2 là giai đoạn học tập sâu ( so với giai đoạn trước). Hoạt động chủ đạo của học sinh ở giai đoạn này là hoạt động học. Nếu như ở các lớp 1,2,3, học sinh chủ yếu nhận biết các khái niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thật hoặc mô hình, tranh ảnh,...chủ yếu nhận biết cái riêng lẻ, cái toàn thể . Nhưng đến giai đoạn 2, ở lớp 4,5, các em được học tập các kiến thức và kĩ năng khái quát hơn, tường minh hơn . Học sinh học tập thông qua hoạt động thực hành, luyện tập của cá nhân hay nhóm để từ đó có thể tự mình phát hiện ra các kiến thức, kỹ năng mà giáo viên cần dạy. Nhận thức của học sinh ở giai đoạn này bắt đầu chuyển sang nhận thức lý tính trên cơ sở quan sát, phân tích, so sánh các hiện tượng và sự kiện trong học tập và trong đời sống. Tính trừu tượng, khái quát của nội dung môn Toán ở các lớp 4,5 được nâng lên một bậc. Đối với chương trình môn Toán lớp 4, học sinh bước vào một giai đoạn học tập mới. Chương trình có kế thừa và phát huy các kết quả về kiến thức và kĩ năng môn Toán ở giai đoạn 1, đồng thời cũng khái quát hóa kiến thức và học những kiến thức mới, những dạng Toán mới. Trong nhiều năm trực tiếp làm GV dạy lớp 4 và làm công tác quản lí trong những năm gần đây, tôi nhận ra rằng, chất lượng môn Toán của học sinh lớp 4 bao giờ cũng thấp hơn các khối lớp khác. Cũng đối tượng học sinh đó, ở lớp 2,3, tỉ lệ học sinh hoàn thành trở lên khá cao, rất ít học sinh chưa hoàn thành. Nhưng khi lên lớp 4, đặc biệt là kết quả cuổi học kì thì tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành môn học tăng lên. Với hơn hai năm học thực hiện thông tư 30 và thông tư 22 sửa đổi bổ sung của BGD ngày 22/9/2016 với mục đích giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, .... coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh . Bên cạnh đó, việc thực hiện TT30, TT22 còn giúp học sinh tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ; giúp cán bộ quản lí giáo dục các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục. Với tinh thần của thông tư và trách nhiệm của người thầy bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ làm sao để nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng. Là một phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tôi đã tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân vấn đề và đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng môn Toán lớp 4, đồng thời giảm tối thiểu học sinh chưa hoàn thành môn Toán ở khối lớp này với đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4” 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu SGK để nắm được nội dung chương trình trên cơ sở lí luận thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Toán lớp 4. - Từ đó tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân làm cho chất lượng hoàn thành môn học của học sinh chưa cao. - Đưa ra một số biện pháp khắc phục những hạn chế khi nắm kiến thức chuẩn của học sinh khi học môn Toán . 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Đối tượng: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Phương pháp chính. - Nghiên cứu lý luận - Phương pháp điều tra - Phương pháp thu thập thông tin - Phương pháp khảo sát, thống kê - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp thực nghiệm. - Tổng kết và trao đổi kinh nghiệm 2. Phương pháp bổ trợ: - Phương pháp kiểm tra, đánh giá - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm - Phương pháp đàm thoại PHẦN II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN : CƠ SỞ LÝ LUẬN: Dạy toán là dạy hoạt động toán học. Các bài tập Toán ở hầu hết các học phần là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp người học nắm vững tri thức, phát triển năng lực tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo ứng dụng toán học vào thực tiễn. Việc học toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của người lao động mới. Khi làm toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, để các em thiết lập mối liên hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Để từ đó các em suy luận, nêu ra những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm sau khi đã hoàn tất, sự độc lập suy nghĩ và sự sáng tạo ... giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Khi học Toán ở tiểu học, các em thường gặp nhiều khó khăn khi lĩnh hội các kiến thức toán học, đặc biệt là học sinh lớp 4, bởi : học sinh thường gặp nhiều khó khăn khi lĩnh hội các kiến thức toán học, đặc biệt là học sinh lớp 4, bởi: Ở giai đoạn đầu Tiểu học (lớp 1,2,3) môn Toán chủ yếu gồm các nội dung gần gũi với cuộc sống của trẻ, sử dụng các kinh nghiệm đời sống của trẻ, nhưng sang giai đoạn cuối Tiểu học (lớp 4, 5) cấu trúc chương trình môn Toán tập trung vào các nội dung có tính khái quát, tính hệ thống cao hơn, khá trừu tượng hơn. Đòi hỏi học sinh phải nỗ lực rất nhiều mới có thể lĩnh hội được kiến thức. Mặt khác, thực tiễn còn cho thấy việc lĩnh hội kiến thức Toán học của học sinh ở lớp 4 chưa hiệu quả vì đa số học sinh lớp 4 nói riêng và học sinh cuối Tiểu học nói chung chưa thực sự hứng thú với môn Toán. Hơn nữa việc học Toán chỉ gói gọn trong chương trình học trên lớp, trong những bài toán cơ bản của sách giáo khoa khiến cho các em thấy môn học này còn quá gò bó và khô khan,chưa khơi gợi hứng thú học tập và kích thích được tính sáng tạo của các em. 2.2 THỰC TRẠNG VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU. Qua quá trình quản lí và theo dõi chất lượng đại trà của toàn trường, tôi nhận thấy rằng, cũng lứa, đối tượng học sinh đó nhưng chất lượng môn Toán lớp giảm nhiều so với khi các em học lớp 2, lớp 3. Năm học 2013- 2014, kết quả bài kiểm tra định kỳ các em ( 96 em) ở khối lớp 3 như sau: Bài kiểm tra kỳ I( lần 2) khối lớp 3 Bài kiểm tra kỳ II( lần 4) khối lớp 3 9-10 7-8 5-6 <5 9-10 7-8 5-6 <5 34 em =35,4 % 31 em =32,3 % 28 em = 29,1 % 3em = 3,2 % 36 em =37,6 % 29 em =30,2% 31 em =32,2 % 0 em = 0 % Năm học 2014 - 2015, tôi đã tổng hợp kết quả bài kiểm tra định kỳ chính 96 em đó lên khối 4 như sau: Bài kiểm tra kỳ I Bài kiểm tra kỳ II 9-10 7-8 5- 6 <5 9-10 7-8 5- 6 <5 31 em =32,2 % 26 em =27 % 35 em = 36,7 % 4 em = 4,1 % 25 em =26 % 27 em =28,1% 41 em =42,8 % 3 em =3,1 % Qua kết quả đã tổng hợp môn Toán của 96 em học sinh này năm lớp 3 với lớp 4, tôi nhận thấy rằng tỉ lệ học sinh đạt điểm từ 7 đến điểm 10 giảm xuống còn học sinh đạt điểm 5- 6 và < 5 lại tăng lên. Cùng với số liệu gần nhất, đồng thời xem xét lại hồ sơ và kết qủa học tập các năm học trước đó, tôi nhận thấy rằng, hầu hết chất lượng môn Toán của chính các em lớp 4 đều bị giảm sút so với kết quả so với cuối năm lớp 3. Tại sao lại như vây? Tôi suy nghĩ và tiếp tục nghiên cứu, tìm hiều nguyên nhân đồng thời tìm biện pháp chỉ đạo phù hợp. 2.2.1. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG. a. Về nội dung chương trình: Khi bắt đầu học môn Toán lớp 4, học sinh bắt đầu chuyển sang giai đoạn học tập sâu hơn so với các kiến thức và kĩ năng mà các em đã được học ở các khối lớp 1,2,3. Các nội dung về số, phép tính, đo lường, yếu tố thống kê, giải toán có lời văn... được dạy nhiều kiến thức mới. Về số học, chương trình đã bổ sung, hoàn thiện, tổng kết , khái quát hóa ( dù còn đơn giản) về số tự nhiên và dãy số tự nhiên. Nhân, chia với ( cho) số có nhiều chữ số, các công thức khái quát hóa các tính chất của phép tính được hình thành. Nhiều đơn vị đo lường mới, gắn với thực tế được dạy. Mạch kiến thức về giải toán có lời văn cơ bản của Tiểu học như Tìm hai số khi biết Tổng và hiệu hoặc Tổng và tỉ số hay Hiệu và tỉ số của hai số....được đưa vào chương trình. .... Mặc dù các kiến thức, kĩ năng Toán 4 được dạy từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, nhưng với nhiều học sinh, nhất là những học sinh có tư duy và khả năng tiếp thu kém hơn là cả một vấn đề không đơn giản. Học sinh lớp 4 phải học một khối lượng kiến thức rộng và khó hơn nhiều so với những gì mà các em đã học ở lớp 3. Để tiếp thu và vận dụng được khối lượng kiến thức như vậy, đối tương học sinh chưa hoàn thành tiết học, môn học khá vất vả. Đây chính là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới nhiều học sinh lớp 4 có kết quả môn Toán đi xuống. b. Về phía học sinh: Đối với học sinh chưa hoàn thành môn Toán, qua nghiên cứu, tôi thấy các đối tượng học sinh này phần lớn các em ghi nhớ chưa sâu về kiến thức dẫn đến kĩ năng hoàn thành bài nhiều lần chưa hoàn thành. Qua tìm hiểu và báo cáo của các giáo viên chủ nhiệm, có khá nhiều lí do dẫn đến học sinh có kết quả môn Toán hạn chế như: Kiến thức của lớp dưới các em lên lớp trên đã quên như : quên bảng cửu chương, cộng trừ có nhớ còn chậm... dẫn đến kỹ năng thực hiên phép chia khá vất vả). Khả năng tiếp thu kiến thức, năng lực tư duy yếu ; khả năng phân tích tổng hợp, so sánh của một số em còn hạn chế, lười suy nghĩ, chưa chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên. Một số em thì học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức để thực hành tính, kĩ năng giải toán. Đối tượng các em này thường không thực hiện được kĩ năng tính, nhất là gặp rất nhiều khó khăn khi nhân ( chia ) với ( cho ) số có nhiều chữ số, hay lẫn dạng và chưa phân được cách giải các dạng toán có lời văn mới được dạy trong chương trình (Toán TBC, Toán về Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu , Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ số), vệc nhận dạng các hình hình học hay kĩ năng chuyển đổi các đơn vị đo lường còn chậm... c. Về phía giáo viên Với 3GV/3 lớp , BGH đã chọn các đồng chí có trình độ trên chuẩn và đã đạt giáo viên giỏi cấp huyện trở lên, các giáo viên được phân công dạy lớp 4 đa số có kiến thức và kĩ năng sư phạm tương đối tốt. Tuy nhiên, về phía giáo viên, tôi thấy còn một số hạn chế như sau: + Do khối lượng kiến thức môn Toán lớp 4 khá nặng bởi nhiều dạng kiến thức mới được đưa vào chương trình, nên việc hiểu sách và truyền đạt lại cho tất cả học sinh nắm được kiến thức thì không phải giáo viên nào cũng làm được, đặc biệt là hình thành cho các em chia cho số có nhiều chữ số, hay giúp các em phân biệt được các dạng toán có lời văn và giải tốt các dạng toán đó. + Có giáo viên với đối tượng học sinh chưa hoàn thành đôi lúc chưa sát sao và phối hợp với gia đình trong việc hướng dẫn ôn bài cho các em còn hạn chế. + Giải pháp tâm lí cũng như sự động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt nên tiết toán trở nên nặng nề với các em.. d. Về phía phụ huynh học sinh. Qua tìm hiểu, nghiên cứu, ngoài những học sinh còn chưa hoàn thành môn Toán lớp 4 có 1 em khiếm khuyết về trí tuệ, còn đa số các em còn lại đều thuộc vào những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, không quan tâm đến việc học của con, hoặc những gia đình quan tâm thì bố mẹ lại không có kiến thức để giúp hoặc hỗ trợ con trong việc học ở nhà. Những phụ huynh có kiến thức muốn giúp đỡ con lại không nắm được phương pháp giải Toán Tiểu học. Chính vì vậy, có nâng bậc được học sinh chưa hoàn thành phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào cô giáo dạy trên lớp. Từ thực trạng và nguyên nhân như vậy, Tôi đã nghiên cứu và thực hiện các giải pháp chỉ đạo của mình trong hai năm học 2015 - 2016, 2016 - 2107 để nâng cao chất lượng đại trà nói chung, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành ở khối lớp 4 như sau: 2.3 CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN Thứ nhất: Dựa vào kết quả bàn giao chất lượng cuối năm của GVCN lớp dưới với GVCN lớp trên,chỉ đạo GVCN phân loại đối tượng học sinh. Dựa vào đánh giá của GV lớp dưới và kết quả kiểm tra chất lượng cuối năm. Ngay từ đầu năm tôi chỉ đạo cho giáo viên trong trường nói chung và khối 4 nói riêng phân loại và tìm hiểu về hoàn cảnh những học sinh chưa hoàn thành, lập danh sách các đối tượng cần giúp đỡ vì đầu năm lớp 4 mà chất lượng môn Toán chưa tốt sẽ rất khó khăn cho cả một giai đoạn học tập sau đó. Thứ hai: Gợi nhu cầu nhận thức ham tìm hiểu, khám phá kiến thức Toán cho học sinh: Nhà tâm lí học Pôlya nói: “ Con người chỉ tư duy tích cực khi có nhu cầu. Hoạt động nhận thức chỉ có kết quả cao khi chủ thể ham thích, tự giác và tích cực”. (Pôlya, Tâm lý học, Tập II, Tr 128) Do đó trong dạy học môn toán cần khéo léo sử dụng các phương pháp thích hợp có tác dụng khêu gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư duy của học sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của giờ đang học. Đồng thời xây dựng niềm tin vào khả năng cho học sinh, làm cho học sinh cảm thấy rằng nếu mình tập trung, chịu khó học tập thì sẽ thu lượm được những kết quả tốt đẹp có ích cho bản thân, vừa lòng thầy cô, cha mẹ. Đặc thù của việc học môn toán đòi hỏi có các đức tính cần cù, chịu khó, tỉ mỉ, nhẫn nại, thẩm mĩ, nhưng học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi thường hay phân tán sự tập trung, chóng chán. Hoạt động gợi nhu cầu nhận thức, gây hứng thú môn học có thể được sử dụng linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Không nhất thiết, đơn thuần chỉ sử dụng ngay đầu tiết dạy. Thứ ba: Cá biệt hoá từng đối tượng học sinh cần giúp đỡ : Nhận thức là hoạt động trí tuệ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà hình thức thể hiện của nó là khả năng tiếp thu. Khả năng tiếp thu lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố môi trường. Xây dựng môi trường riêng cho mỗi cá nhân trong giờ học có vai trò quan trọng trong việc giúp các em lĩnh hội các kiến thức bài học. Ta đã biết học là hoạt động đơn phức của hoạt động trí óc. Do đó giáo viên cần nắm thật vững, thật cụ thể lực học của từng cá nhân trong tập thể lớp để từ đó xây dựng môi trường riêng, cách hướng dẫn riêng cho cá nhân trong hoạt động nhận thức tiếp thu bài. Ví dụ: + Học sinh K có thị lực yếu, cần bố trí vị trí ngồi hợp lý trong lớp để em nhìn rõ thuận tiện cho quá trình học tập. + Học sinh S ham chơi, khả năng tiếp thu chậm thì cần bố trí chỗ ngồi gần bảng gần bàn giáo viên ở dãy trong để giáo viên thuận lợi hơn trong việc kèm cặp, giúp đỡ. Bên cạnh đó giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi phụ nhiều hơn, chi tiết hơn để gợi ý hướng dẫn các em từng bước khi thực hiện để hoàn thành bài tập nên những em trong diện được chú ý đặc biệt cần được sắp xếp chỗ ngồi thuận lợi phù hợp cho cả thầy và trò.. Thứ tư: Nâng cao ý thức trách nhiệm cho giáo viên trong việc nâng bậc học sinh chưa hoàn thành môn học nói chung và môn Toán 4 nói riêng. Việc bồi dưỡng học sinh có năng khiếu môn học hay giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành là việc làm thường xuyên của mỗi giáo viên trong trường song việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu nhất là môn Toán lại được giáo viên và gia đình quan tâm hơn. Nhận thấy được điều đó, trong nhiều năm học gần đây, BGH nhà trường đã sát sao hơn trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong việc nâng cao chất lượng đại trà nói chung và nâng bậc học sinh chưa hoàn thành nói riêng. Các khối lớp đều có kế hoạch giúp đỡ, theo dõi nâng bậc học sinh chưa hoàn thành. Riêng với các giáo viên trực tiếp dạy khối 4, tôi đã gặp gỡ, trao đổi cùng phân tích nguyên nhân dẫn đến số lượng học sinh chưa hoàn thành nhiều hơn các khối lớp khác, giúp GVCN thấy được tầm quan trọng của chương trình Toán 4 với cả bậc học cũng như trong suốt quá trình học tập của các em sau này. Từ đó, các giáo viên dạy khối 4 thấy rõ được vai trò của mình trong việc nâng bậc học sinh chưa hoàn thành. Bên cạnh đó, các giáo viên khối 4 cũng nhận thức được rằng, với những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt dẫn đến chưa hoàn thành môn học, việc nóng vội sẽ không đem lại kết quả, các em chậm không chỉ ở kiến thức mà cả kỹ năng rất cần đến sự nhiệt tình, tận tụy hết lòng với học trò hay sự động viên, khen ngợi, khuyến khích của các cô dù là những tiến bộ rất nhỏ. Thứ năm: Định hướng xây dựng bài tâp, hệ thống câu hỏi phụ với các dạng bài tập cho học sinh chưa hoàn thành. Một việc làm rất quan trọng để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4 là xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở các dạng bài tập cho các em rất cần được giáo viên quan tâm chú ý. Trong quá trình chỉ đạo, tôi đã yêu cầu giáo viên dạy khối 4 quan tâm và rà soát các dạng bài tập cần định hướng , gợi mở giúp các các em phải hoàn thành trong quas trình soạn bài trước khi lên lớp: 5.1. Dạng bài tập bù thêm kiến thức, kĩ năng còn thiếu hụt ở các em. Trong chương trình môn Toán lớp 4, càng về sau, chương trình càng nặng về kiến thức và kĩ năng. Với những học sinh chưa hoàn thành về môn Toán, đa số các em quên kiến thức ở lớp dưới . Vì vậy giáo viên cần quan tâm, phát hiện , phân loại những kiến thức đã mất của các em. Có học sinh chưa thuộc bảng cửu chương, nhân (chia) chưa thành thạo với (cho) số có một chữ số, cũng có học sinh kĩ năng trừ nhẩm chưa tốt, hay có em hay mắc lỗi về giải toán có lời văn, nhất là bài toán có nhiều lời giải.... Phát hiện những thiếu hụt kiến thức đó, giáo viên tập trung xây dựng những bài tập phù hợp để cho các em luyện tập thêm trong các buổi tăng. Các bài tập này cần thiết cho học sinh vì vậy phải kịp thời, đúng thời điểm và chủ yếu trong thời gian đầu năm học. Trước khi dạy cho các em kĩ năng nhân (chia) với ( cho ) số có hai, ba chữ số thì giáo viên cần xem trong lớp những em nào còn chưa thuộc bảng cửu chương, chưa nhân ( chia ) thành thạo với ( cho ) số có một chữ số hay chưa trừ nhẩm thành thạo thì cần có bài tập để lấp những lỗ hổng kiến thức này. Vì vậy với những em chưa hoàn thành giáo viên chuẩn bị thêm một số bài nhằm ôn lại kiến thức cũ của lớp dưới : Ví dụ1 : Bài 1: Tính nhẩm: 8 8 = ............ 6 8 = ............ 54 : 9 = ............... 56 : 7 = ............ 42 : 7 = ........... 64 : 8 = ................ Bài 2: Đặt tính rồi tính 653 + 46 325 - 36 Bài 3: Đặt tính rồi tính: 123 5 762 : 6 Để thực hiện tốt kĩ năng tính ở chương trình Toán 4, học sinh cần phải làm được các bài tập trên, bởi nếu không thuộc bảng cửu chương, không trừ nhẩm được hay chưa có kĩ năng nhân ( chia ) với ( cho) số có một chữ số thì hậu quả kéo theo là các em sẽ không thể nhân (chia) với ( cho ) số có hai, ba chữ số. Hay trước khi dạy các em các dạng toán có lời văn, cần cho các em làm lại một số dạng toán có lời văn đã học ở các lớp dưới, để học lại cách phân tích đề bài, cách tóm tắt, nhớ lại cách giải, rèn kĩ năng tư duy với những bài toán đơn giản, từ đó bắt vào những dạng Toán phức tạp hơn.... Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh chưa hoàn thành. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh có kết quả học tập chưa tốt môn học này, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Riêng đối với môn Toán của toàn bậc học
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_giup_do_hoc_sinh_chua_hoan_tha.doc