SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy kĩ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Đông Vệ 1
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay: Nhiều học sinh thụ động trong cuộc sống, trong xử lí tình huống ứng xử, từ năm học 2010-2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào chương trình giảng dạy cấp Tiểu học một nội dung mới, đó là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nội dung này được triển khai lồng ghép với các môn học khác.
Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí- xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc sống, giúp cho con người vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại. Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Kĩ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kĩ năng sống một con người mới có những kĩ năng sống đầu tiên. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn trong cuộc sống.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một việc làm rất quan trọng và cần thiết nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ”; “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”, nó gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục: Học để biết; Học để làm người; Học để chung sống với người khác; Học để làm. Điều đó giúp các em tự tin, chủ động ứng xử linh hoạt các tình huống trong cuộc sống.
Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện . Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói không đi đôi với việc làm thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài : Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay: Nhiều học sinh thụ động trong cuộc sống, trong xử lí tình huống ứng xử, từ năm học 2010-2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào chương trình giảng dạy cấp Tiểu học một nội dung mới, đó là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nội dung này được triển khai lồng ghép với các môn học khác. Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí- xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc sống, giúp cho con người vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại. Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kĩ năng sống một con người mới có những kĩ năng sống đầu tiên. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn trong cuộc sống. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một việc làm rất quan trọng và cần thiết nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ”; “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”, nó gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục: Học để biết; Học để làm người; Học để chung sống với người khác; Học để làm. Điều đó giúp các em tự tin, chủ động ứng xử linh hoạt các tình huống trong cuộc sống. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện . Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói không đi đôi với việc làm thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách. Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng,đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là một nội dung mới - đặc biệt đối với trường Tiểu học Đông Vệ 1, bởi vậy nhiều giáo viên còn thấy lúng túng, bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn trong việc xác địmh tên gọi kĩ năng, cũng như cách tiến hành dạy học. Là người phụ trách chuyên môn của nhà trường, tôi rất quan tâm đến vấn đề này, theo quan điểm của tôi, nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học không chỉ được tích hợp ở các môn học mà nó còn thể hiện rất rõ nét ở các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trước thực trạng và yêu cầu trên với mong muốn rằng học sinh của trường mình sẽ tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp hằng ngày, tôi đã chọn và nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo dạy kĩ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Đông Vệ 1”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo dạy kĩ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Đông vệ 1”. Nhằm giúp đội ngũ giáo viên nâng cao nhận thức về “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học”.và thông qua dạy học,giúp giáo viên vận dụng sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy sự vận dụng các kĩ năng của học sinh vào học tập cũng như trong cuộc sống.vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức khuyến khích học sinh vận dụng có hiệu quả các kĩ năng của các em. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng dạy học kĩ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Đông Vê 1- Thành phố Thanh Hóa Hoá, từ đó đề xuất các biện pháp chỉ đạo dạy học, góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy kĩ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học. 1.3. Đối tượng nghiên cứu : Giáo viên, học sinh lớp 3ATrương Tiểu học Đông Vệ 1. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp xây dựng cơ sở lí thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 2.1. Cơ Sở lý luậncủa vấn đề giáo dục Kĩ năng sống cho HS Tiểu học hiện nay: Thực hiện nghị quyết số 40/2008/CT- BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông , trong đó có nội dung: Rèn kĩ năng sống cho học sinh phù hợp với lứa tuổi; Căn cứ nhiệm vụ năm học 2017-2018 của ngành về việc chú trọng: Rèn kĩ năng sống cho học sinh; Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, trong đó trách nhiệm lớn lao nhất là từ phía nhà trường, các em học sinh không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em có một môi trường lành mạnh,an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để tự tin bước vào đời. Ngày nay học sinh rất ít có hoài bão, ước mơ. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè, thiếu tự tin khi giao tiếp hoặc ngại tham gia vào các hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, những trò chơi điện tử hoặc hệ thông ảo trên Internet lại đang phát triển rất ồ ạt khiến học sinh bị cuốn hút vào theo. Chính những điều này đã làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà những người quan tâm đến giáo dục thế hệ trẻ thường đặt ra là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, khoa học, nhân văn, học sinh cần học những điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, lớn lên, trưởng thành và trở thành những công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế, đây cũng là nỗi quan tâm, lo lắng, trăn trở đặt ra cho những người làm công tác giáo dục như chúng ta. 2.2. Thực trạng của vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho HS Trường Tiểu học Đông Vệ 1: a. Tình hình địa phương: Phường Đông Vệ- Thành phố Thành phố Thanh Hóa nằm cách xa trung tâm Thành phố khoảng 3 km, là một địa bàn khá rộng lớn của Thành phố, được hình thành 19 phố. Toàn phường diện tích 4,8 km2, tổng số dân cư gần 23.000 dân, mật đọ dân số 4,792 người/1km2. Đông Vệ là một phường lớn nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông truyền thống, buôn bán. . .nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Những năm trở lại đây Đông Vệ đang phát triển về kinh tế, văn hoá, an ninh chính trị được giữ vững, giáo dục được quan tâm. Trường Mầm Non đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1, 2 Trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1; Trường THCS đang xây dựng trường chuẩn quốc gia mức độ1. Đảng bộ và nhân dân địa phương luôn quan tâm đến giáo dục , tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng như tinh thần cho các cán bộ giáo viên và học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ. b.Tình hình nhà trường: Trường Tiểu học Đông Vệ 1là đơn vị có bề dày thành tích, 11 năm liên tục đạt “Tập thể lao động Tiên tiến”. Đội ngũ giáo viên có trình độ đào tạo trên chuẩn cao, trẻ, khoẻ, nhiệt tình, yêu nghề, có trách nhiệm trong công việc, có ý thức vươn lên.Tập thể sư phạm luôn đoàn kết. Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của cấp ủy Đảng và chính quyền, sự chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dục, sự hỗ trợ tận tình của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, của phụ huynh học sinh . Nhà Trường đạt trường chuẩn quốc gia mức độ và thư viện đạt chuẩn năm 2014. - Cơ cấu tổ chức: Tổng số cán bộ giáo viên nhân viên: 34 đ/c. Trong đó ban giám hiệu: 01 Hiệu trưởng trình độ Thạc sỹ và 02 Phó hiệu trưởng, trình độ Đại học. Giáo viên: 28 (trong đó: 28 nữ), trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn 100%. - Năm học 2017-2018: Số lớp: 20 lớp; Số học sinh : 842 em; Huy động ra lớp đạt 100%, huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%. Đa số giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn nên việc tiếp cận với những nội dung và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới tương đối thuận lợi.Trong những năm gần đây, công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, cùng với sự cố gắng của đội ngũ giáo viên, chất lượng giáo dục của nhà trường đang từng bước đi lên cùng với sự tự tin hơn của học sinh trong học tập cũng như trong cuộc sống. c. Thực trạng của vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của nhà trường: Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Từ năm học 2010-2011, Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành phố Thanh Hóa Hóa đã tổ chức lớp tập huấn chuyên đề Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và phát tài liệu đến từng nhà trường. Ở trường tôi, chuyên đề này đã được triển khai đến từng giáo viên và đã có đưa nội dung vào từng bài học. Đa số giáo viên đều nhận thức được rằng: Kĩ năng sống là những trải nghiệm hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Kĩ năng sống được chia làm hai loại: Kĩ năng cơ bản và kĩ năng nâng cao. Kĩ năng cơ bản gồm: Kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, chạy, nhảy. đi, đứng, Kĩ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kĩ năng cơ bản dưới một dạng thức mở hơn. Nó bao gồm: Các kĩ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi,Có thể chia các kĩ năng nâng cao thành hai nhóm: Nhóm kĩ năng giao tiếp - hòa nhập cuộc sống: Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè thầy cô giáo; Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và nơi cộng đồng; Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi; Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn- Đây là kĩ năng quan trọng mà không phải em nào cũng xử lí được nếu không được rèn luyện thường ngày. Nhóm kĩ năng học tập, lao động - vui chơi giải trí: Các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, kĩ năng quan sát, kĩ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm bạn; Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung; Kĩ năng kiểm soát tình cảm-kĩ năng kìm chế thói hư tật xấu, sở thích cá nhân có hại cho bản thân và người khác; Kĩ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động. Tuy nhiên, thực tế việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn nhiều hạn chế và chưa có nét chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng của giáo viên cũng như của phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ, giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình đang dạy. Về vấn đề này, tôi nghĩ không chỉ mình giáo viên trường tôi mà hầu như đối với giáo viên nói chung và cũng với một số ít cán bộ quản lí. Trong sinh hoạt chuyên môn,vấn đề này cũng được đưa ra trao đổi, có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng học sinh Tiểu học còn quá nhỏ để chúng ta dạy nhiều thứ như thế, học các môn văn hóa đã đủ rồi.Ví dụ khi dạy các bài học có nội dung liên quan đến nông nghiệp địa phương, có ý kiến cho rằng nếu là học sinh của thành phố hay con em của các gia đình công chức thì có nói các em cũng không biết. Tôi không hoàn toàn đồng ý với những quan điểm đó và cho rằng nên đưa bài học đến gần học sinh hơn, với những bài học có nội dung gắn với địa phương thì học sinh không biết càng phải nói, học sinh biết rồi thì phải nói lại cho có hệ thống. Đó chính là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Về phía học sinh , các em hay quen nói trước quên sau và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học áp dụng vào thực tế, với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy rằng các em rất hiếu động, các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Xong các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng, nhưng việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học, giáo viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Khảo sát một tiết dự giờ thăm lớp tại lớp 3A của trường, sĩ số 40 em, khi giáo viên nêu yêu cầu, tôi quan sát thấy các em cứ nhìn nhau và thì thào nhưng chỉ được một số ít em nào giơ tay phát biểu ý kiến. Cuối tiết học tôi làm một cuộc trắc nghiệm nhỏ, phát cho mỗi em một tờ phiếu có ghi câu hỏi: Ở các tiết học em có thường xuyên phát biểu ý kiến xây dựng bài không? (Đây chính là kiểm tra kĩ năng tự tin trong giao tiếp và kĩ năng biết đưa ra ý kiến chia sẻ) Kết quả thu được như sau: Phiếu phát ra Phiếu thu vào Trả lời có Biết nhưng không dám nói Trả lời không SL SL TL SL TL SL TL 40 8 20% 27 62,5% 5 17,5% Từ kết quả trên cho thấy rằng học sinh chưa tự tin trong học tập, chưa dám mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ, những hiểu biết của mình, điều đó cũng có nghĩa là kĩ năng sống của các em còn hạn chế. Với cương vị là một người phụ trách chuyên môn, tôi rất trăn trở về vấn đề này, quan sát hoạt động của các em rồi tham gia vào các hoạt động học tập cũng như các hoạt động ngoài giờ lên lớp của học sinh, qua nghiên cứu, thực nghiệm , bản thân tôi rút ra được một số biện pháp chỉ đạo cho giáo viên dạy kĩ năng sống cho học sinh đã được áp dụng ở trường tôi và thu được những chuyển biến rất đáng khích lệ. 2.3. Các biện pháp thực hiện: *Biện pháp1: Giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về việc dạy học sinh kỹ năng sống Giáo dục kĩ năng sống là con đường để hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, đặc biệt đối với học sinh Tiểu học, giáo viên quan trọng là phải nhận thức được rõ nét và sâu sắc vấn đề này. Ngay từ đầu năm học chúng tôi đã tổ chức triển khai tiếp chuyên đề “Rèn kĩ năng sống cho học sinh” cho toàn thể giáo viên phụ trách các khối lớp, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc học tiểu học theo tài liệu do Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành, yêu cầu giáo viên ghi chép những nội dung cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn nghiệp vụ và phải coi đó như một cẩm nang nghề nghiệp, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế HS sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi HS tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản thì HS sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. *Biện pháp2: Giúp giáo viên xác định rõ những kỹ năng sống cơ bản cần dạy học sinh ở lứa tuổi Tiểu học : Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc Tiểu học thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là HS em độ tuổi lớp 1. Theo tài liệu Giáo dục kĩ năng sống có 21 kĩ năng cơ bản được chia thành 4 nhóm.Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất HS phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm và cách thức phù hợp để dạy học sinh. *Biện pháp 3: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy HS: + Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú trọng là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp HS luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. + Kỹ năng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Trường Tiểu học Đông Vệ 1 là Trường học, học chương trình hiện hành nhưng ý thức đổi mới phương pháp dạy học luôn được tập thể BGH chỉ đạo sát sao đòi hỏi khả năng hợp tác của học sinh trong quá trình hoạt động nhóm rất nhiều. + Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. + Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy HS biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, HS cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với HS. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng học mọi thứ. *Biện pháp 4: Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy học sinh kỹ năng sống *Trách nhiệm của nhà trường - Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của nhà trường, kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của học sinh và xây dựng kế hoạch năm học cho phù hợp với từng độ tuổi ở từng khối lớp và phù hợp với đặc điểm của chương trình. - Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động ngoài giờ lên lớp theo thời gian biểu của nhà trường. - Tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng sống qua các tài liệu, trao đổi với cha mẹ các em về các hành vi kĩ năng sống , tạo cơ hội và tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy các em kỹ năng sống đạt hiệu quả. * Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho học sinh ? - Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh, cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh, vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. - Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. - Giáo viên cần giúp học sinh có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, biết chia sẻ chăm sóc, HS cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới.Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của các em. - Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huyng những nội
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_day_ki_nang_song_cho_hoc_sinh.doc