SKKN Một số biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực dạy học VNEN

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực dạy học VNEN

 Trường học là nơi học sinh được tiếp thu tri thức khoa học và những kỹ năng cần thiết để hình thành, phát triển phẩm chất tốt đẹp của con người. Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thông qua các mối quan hệ đa dạng. Môi trường giáo dục tốt sẽ đào tạo những con người có đạo đức, phẩm chất, trí tuệ tốt để sau này đóng góp công sức vào xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục nước ta hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không có sự đổi mới trong giáo dục và đào tạo thì nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước. Mặt khác, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tao; phát triển nguồn nhân lực là vấn đề bức thiết. Đó vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã từng được khẳng định trong các văn kiện của Đảng trước đây, đặc biệt trong Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI đã nêu rõ, đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống. Trong Văn kiện đại hội XII, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”. Quán triệt, thực hiện tư tưởng, quan điểm chỉ đạo đó, ngành giáo dục đã bắt tay vào công cuộc đổi mới. Một trong những nội dung đổi mới giáo dục phổ thông là việc triển khai Dự án mô hình trường học mới tại Việt Nam (GPE-VNEN) nhằm thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.

doc 29 trang thuychi01 5390
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực dạy học VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Trường học là nơi học sinh được tiếp thu tri thức khoa học và những kỹ năng cần thiết để hình thành, phát triển phẩm chất tốt đẹp của con người. Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thông qua các mối quan hệ đa dạng. Môi trường giáo dục tốt sẽ đào tạo những con người có đạo đức, phẩm chất, trí tuệ tốt để sau này đóng góp công sức vào xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục nước ta hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.  Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không có sự đổi mới trong giáo dục và đào tạo thì nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước. Mặt khác, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tao; phát triển nguồn nhân lực là vấn đề bức thiết. Đó vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã từng được khẳng định trong các văn kiện của Đảng trước đây, đặc biệt trong Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI đã nêu rõ, đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống. Trong Văn kiện đại hội XII, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”. Quán triệt, thực hiện tư tưởng, quan điểm chỉ đạo đó, ngành giáo dục đã bắt tay vào công cuộc đổi mới. Một trong những nội dung đổi mới giáo dục phổ thông là việc triển khai Dự án mô hình trường học mới tại Việt Nam (GPE-VNEN) nhằm thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. 
 Dự án Mô hình trường học mới GPE-VNEN được Bộ GD&ĐT triển khai thí điểm từ năm học 2012-2013 ở 1447 trường tiểu học nhằm thực hiện chủ trương đổi mới về phương pháp dạy, phương pháp học, phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh và tổ chức lớp học. Kể từ đó đến nay đã qua 4 năm thử nghiệm, trường tiểu học Nga Vịnh cũng như các trường thực hiện Dự án đã gặp không ít những khó khăn nhưng bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học VNEN ở nhiều trường, cán bộ quản lý (CBQL) vẫn còn lúng túng trong việc lập kế hoạch, tổ chức sinh hoạt chuyên môn (SHCM), hoặc chưa có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo đổi mới phương pháp một cách triệt để. Giáo viên dạy đúng theo yêu cầu Dự án nhưng vẫn còn ảnh hưởng thói quen phương pháp dạy hiện hành hoặc cho rằng dạy học mà để học sinh tự học là không hiệu quả nên đôi khi vận dụng cách dạy học chưa đúng tinh thần của Dự án. Bên cạnh đó, phụ huynh tỏ ra băn khoăn với cách dạy học mới này, họ còn lo lắng đến chất lượng học tập của con cái Mặt khác, hiện tại chưa có nhiều tài liệu bồi dưỡng giáo viên và chưa có nhiều các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu hoặc đưa ra các kinh nghiệm giúp giáo viên và CBQL học hỏi để nâng cao chất lượng dạy học VNEN. Do đó, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để thực hiện tốt Dự án Mô hình trường học mới Việt Nam? Bên cạnh việc tạo niền tin, khẳng định sự thành công và cái ‘hay”, cái “được” của Dự án, điều quan trọng là học sinh học được “cái gì” và chất lượng dạy học như thế nào để Mô hình tiếp tục được duy trì và phát triển? Đây là vấn đề tương đối cần thiết và đòi hỏi phải có nhiều sự đầu tư và tâm huyết của người thầy và sự ủng hộ của toàn xã hội. Để Mô hình trường học mới Việt Nam tiếp tục được phát triển và thực hiện thành công hơn, đòi hỏi mỗi cán bộ giáo viên phải giành tâm sức, đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình quản lý chỉ đạo và thực hiện. Từ những lý do trên, với mong muốn nhà trường thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN được tốt hơn, tôi đã trăn trở, suy nghĩ và nghiên cứu, lựa chọn đề tài mang tính cấp thiết “Một số biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực dạy học VNEN’ để tích lũy thêm kinh nghiệm trong quản lý chỉ đạo, giúp giáo viên và học sinh dạy học tốt hơn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số vấn đề quản lý chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học VNEN.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu, tổng kết biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng về dạy học theo Mô hình trường học mới Việt Nam khối 2,3,4,5 trường tiểu học Nga Vịnh, Nga Sơn.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, bản thân đã áp dụng một số phương pháp chính sau đây:
 - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Là các phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra kết luận khoa học cần thiết. Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu cách tổ chức dạy học của giáo viên, cách học của học sinh; các tài liệu, khái niệm, thuật ngữ; một số văn bản và quan điểm chỉ đạo liên quan đến đề tài.
 - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Là phương pháp dùng hệ thống câu hỏi và tư duy logic theo các nội dung xác định nhằm thu thập những thông tin khách quan nói lên nhận thức và thái độ của người được điều tra, khảo sát để phát hiện những vấn đề liên quan đến dạy học trong nhà trường.
 - Phương pháp thu thập thông tin: Là quá trình tập hợp thông tin theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những vấn đề, nội dung liên quan đến dạy học của giáo viên và học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: là hệ thống các phương pháp dùng để thu thập, xử lý và phân tích các con số (mặt lượng), thu thập và phân tích các số liệu và rút ra kết luận về những vấn đề liên quan đến dạy học VNEN để tìm hiểu bản chất và tính quy luật vốn có của chúng trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể.
B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Mô hình trường học mới VNEN dựa trên kết quả và thành tựu đổi mới Giáo dục Quốc tế, vận dụng cách làm của Giáo dục Colombia một cách sáng tạo, phù hợp với mục tiêu và đặc điểm của Giáo dục Việt Nam. Mục tiêu tổng thể của Mô hình VNEN là phát triển con người: Dạy chữ - Dạy người. Đây là Mô hình được giảng dạy theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong nhà trường thành các hoạt động tự giáo dục cho học sinh. Mọi hoạt động đều vì lợi ích của học sinh, do học sinh thực hiện. VNEN không những kế thừa những mặt tích cực của mô hình truyền thống mà còn có sự đổi mới căn bản, phù hợp với quan điểm “Phải biến quá trình dạy học thành quá trình hoạt động và tự học của học sinh” (theo nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh Mai). Việc tự học của học sinh trong VNEN được bắt nguồn từ hoạt động trải nghiệm, với những bài tập(hoạt động) được thiết kế, dẫn dắt từ những cái học sinh đã biết, từ trực quan sinh động hay từ vốn sống của các em. VNEN không phải bắt học sinh tự học ngay với kiến thức mới và khó mà phần kiến thức này, giáo viên phải giảng giải, hỗ trợ để học sinh nắm vững và tiếp tục làm việc theo Logo, cùng nhau học tập để lĩnh hội những kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ, bình đẳng. Phụ huynh và cộng đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em mình. Trong quá trình làm việc theo nhóm, học sinh có cơ hội tranh luận và đánh giá lẫn nhau. Thông qua đó, giáo viên kịp thời phản hồi tới học sinh về quá trình làm việc và kết quả học tập của các em. Mô hình trường học mới xây dựng mối liên hệ chặt chẽ, tương tác giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Cộng đồng và gia đình luôn có vai trò quan trọng trong giáo dục và hình thành nhân cách của trẻ. Học sinh có thể nhờ cha mẹ giúp đỡ để lĩnh hội kiến thức cũng như ứng dụng nội dung vào cuộc sống hằng ngày. Sự kết nối giữa chương trình học với gia đình và cộng đồng sẽ hiệu quả hơn nếu khuyến khích gia đình và cộng đồng cùng tham gia. Từ đó học sinh có cơ hội chia sẻ các hoạt động văn hóa. Mô hình VNEN đã tăng cường sự hợp tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh, tạo không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện. Học sinh không thụ động mà bắt buộc phải trao đổi, tìm tòi kiến thức với giáo viên và các bạn. Mô hình VNEN đã đáp ứng yêu cầu dạy chữ- dạy người, tăng khả năng giao tiếp và phát triển toàn diện cho học sinh. Giờ học VNEN, lượng kiến thức quá tải đã được tinh giản để phù hợp với đặc điểm nhận thức và tâm sinh lý học sinh tiểu học. Tuy nhiên, VNEN không phải vì thế mà không chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi. Ngoài việc củng cố vững chắc kiến thức cơ bản, chú trọng giáo dục đạo đức theo 5 điều Bác Hồ dạy và tăng cường kỹ năng sống, VNEN còn chú ý đến khả năng phát triển trí tuệ, năng khiếu cho học sinh để các em tiếp tục học tốt các bậc học sau và hướng tới mục tiêu đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây chính là ưu điểm vượt trội mang tính ưu việt của VNEN.
 Trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, nội dung giáo dục sẽ chuyển đổi từ hình thành cho học sinh kiến thức, kỹ năng, thái độ đơn thuần nâng lên thành giáo dục, hình thành cho học sinh phẩm chất, năng lực thì vấn đề xây dựng cho học sinh tinh thần tự học đúng đắn và nâng cao năng lực, trách nhiệm của giáo viên là vấn đề cấp thiết. Do vậy, VNEN cần được thực hiện hiệu quả, đúng tinh thần chỉ đạo, giáo viên và học sinh cần được nâng cao năng lực dạy - học để Mô hình trường học mới Việt Nam ngày càng được triển khai sâu rộng và phát triển nhưng cần phải có sự điều chỉnh, rút kinh nghiệm và vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp để chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. 
 II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC VNEN TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Trường Tiểu học Nga Vịnh là một trong 4 trường của huyện Nga Sơn thực hiện Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam nhưng là trường thuộc vùng khó khăn nhất. Từ thực tế trực tiếp chỉ đạo thực hiện, qua dự giờ, thăm lớp và tham gia sinh hoạt chuyên môn trường và cụm trường, bản thân tôi đã được chứng kiến sự cố gắng, khắc phục khó khăn của các nhà trường và đã đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, cũng như thực trạng chung của các nhà trường, trường tiểu học Nga Vịnh còn gặp những khó khăn, tồn tại,hạn chế sau cần được giải quyết, khắc phục: 
- Giáo viên và CBQL còn gặp những khó khăn, lúng túng trong đánh giá tiết dạy. Giáo viên chưa biết cách khắc chốt kiến thức một cách khoa học, đúng phương pháp và hiệu quả. Họ chưa biết chọn thời điểm và kiến thức kỹ năng cần khắc chốt, còn sa vào phương pháp dạy học hiện hành. Tổ chức lớp học còn rập khuôn, ít sáng tạo.
- Các bài học trong Tài liệu Hướng dẫn học được cấu trúc gồm 2 hoặc 3 tiết, giáo viên còn lúng túng khi phân cắt thời lượng các tiết trong mỗi bài. Do đó, có thể tiết 1 lại quá nhiều hoạt động nhưng tiết 2 hoặc 3 lại quá ít.
- Giáo viên chưa hiểu sâu sắc dạy như thế nào để đảm bảo hoàn thành mục tiêu bài học. Họ ít có thời gian để bồi dưỡng thêm kiến thức nâng cao cho học sinh giỏi (những em xuất sắc) nhưng chưa biết phát huy tốt, đạt hiệu quả cao dạy học buổi 2 và hoạt động của các Câu lạc bộ trong nhà trường cũng như các Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, Hoạt động theo chủ đề và các Công cụ hỗ trợ để học sinh học tốt, đọc tốt hơn, viết chữ đẹp hơn, bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh yếu kém hiệu quả hơn. Họ cho rằng dạy VNEN không làm tốt được vấn đề đó như chương trình hiện hành. Giáo viên còn lạm dụng phần chia sẻ mục tiêu và Ban học tập khi yêu cầu học sinh thực hiện. Họ còn máy móc vận dụng khi xem băng dạy mẫu mà chưa có sự sáng tạo khi áp dụng vào tổ chức dạy học.
- Khi huấn luyện cho Hội đồng tự quản học sinh hoặc trưởng nhóm còn rập khuôn một chiều, theo một khuôn mẫu chung nên không phát huy hết được sự năng động, hồn nhiên, nét sáng tạo thông minh riêng của mỗi học sinh.
- Khả năng giao tiếp của học sinh còn hạn chế, một số trưởng nhóm kỹ năng điều hành, chỉ đạo nhóm chưa tốt. Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đôn đốc con em học tập, ý thức hợp tác với nhà trường còn thấp. Giáo viên chưa biết vận động, tuyên truyền, huy động phụ huynh và cộng đồng cùng tham gia và hỗ trợ tốt cho dạy học VNEN.
- Việc tổ chức Hoạt động tập thể, Hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp, Hoạt động theo chủ đề còn đơn điệu, rập khuôn, ít lôi cuốn, thiếu tự nhiên, hấp dẫn nên hạn chế sự phát triển toàn diện của học sinh.
Qua thực tế khảo sát giờ dạy của giáo viên khối 2, 3, 4,5, bản thân thu được kết quả như sau:
Tổng số GV
Giờ dạy tốt, vận dụng sáng tạo hoạt động Dự án
Giờ dạy khá, biết vận dụng hoạt động Dự án
Giờ dạy và hoạt động Dự án đạt yêu cầu
10
SL
%
SL
%
SL
%
0
10
6
60
4
40
Kết quả khảo sát chất lượng giáo dục học sinh:
Tổng số HS
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Hoàn thành tốt nhiệm vụ
Hoàn thành nhiệm vụ
Chưa hoàn thành nhiệm vụ
150
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
30
20
42
28
75
50
3
2
 Kết quả khảo sát Hoạt động của Hội đồng tự quản học sinh, hoạt động nhóm và khả năng giao tiếp:
Tổng số HS
Khả năng giao tiếp, điều hành hoạt động tốt
Khả năng giao tiếp, điều hành hoạt động khá
Biết giao tiếp, điều hành hoạt động
Chưa biết giao tiếp, điều hành hoạt động
150
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
33
22
30
20
72
48
15
10
 Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Giáo viên đã bước đầu biết vận dụng Mô hình VNEN vào dạy học nhưng hiệu quả chưa cao, chưa có sự sáng tạo mà còn rập khuôn, máy móc và chưa hiểu sâu sắc về VNEN cũng như hoạt động của Dự án. Chất lượng giáo dục học sinh đảm bảo được duy trì, ổn định nhưng số học sinh xuất sắc chưa cao. Số học sinh chưa tự tin trong giao tiếp và điều hành các hoạt động còn nhiều. Điều đó chứng tỏ việc đổi mới phương pháp ở giáo viên chưa triệt để, kỹ thuật dạy học chưa thực sự cao, chưa phát huy hết những ưu điểm, thế mạnh của dạy học VNEN. Do đó, cần có những giải pháp nâng cao năng lực dạy học VNEN để nâng cao chất lượng giáo dục và sự phát triển toàn diện cho học sinh.
 III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 Qua nghiên cứu, khảo sát, phân tích thực trạng, bản thân đưa ra các giải pháp sau giúp giáo viên giải quyết những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế để nâng cao chất lượng dạy học VNEN:
 1. Tăng cường năng lực dạy học VNEN thông qua việc tổ chức tốt bồi dưỡng, tập huấn cấp trường và Sinh hoạt chuyên môn nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên
 Để thực hiện giải pháp này, ngoài việc tổ chức tốt hoạt động tập huấn do Bộ quy định vào đầu tháng 8 và một số thời điểm trong năm học, tôi đã tổ chức bồi dưỡng giáo viên thông qua qua dự giờ, thăm lớp, dạy minh họa, kiểm tra toàn diện giáo viên, khảo sát chất lượng học sinh, tổ chức sinh hoạt chuyên môn tổ và trường hàng tuần, hàng tháng để thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, giải đáp băn khoăn, vướng mắc; và yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tích lũy kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nội dung cụ thể như sau:
 1.1.Nâng cao năng lực đánh giá Hoạt động dạy học
 Việc đổi mới căn bản của Mô hình trường học mới là chuyển hoạt động Dạy của giáo viên thành hoạt động Học của học sinh, hoạt động quy mô lớp thành hoạt động của quy mô nhóm, học sinh từ làm việc với giáo viên thành làm việc với Sách, có sự tương tác với bạn. Do đó, nhóm là đơn vị học tập cơ bản. Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong nhóm: tự giác, tích cực hoạt động, tự quản, tự học, tự tìm tòi, khám phá phát hiện kiến thức theo hướng dẫn của sách. Mọi thành viên trong nhóm phải tự nghiên cứu tài liệu, tự học, chia sẻ với bạn, báo cáo với nhóm kết quả học tập. Các thành viên trong nhóm trao đổi, thống nhất và báo cáo kết quả học tập với giáo viên. Do vậy, cần yêu cầu giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình thành kiến thức để tổ chức lớp học, chuẩn bị đồ dùng dạy học, điều chỉnh nội dung, yêu cầu bài học cho phù hợp với đối tượng và dự kiến các tình huống khó khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá trình hình thành kiến thức để có những giải pháp hợp lí, kịp thời .Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát được hoạt động của tất cả các nhóm, các học sinh trong lớp. Giáo viên chỉ đến hỗ trợ học sinh khi học sinh có nhu cầu cần giúp đỡ hoặc giáo viên cần kiểm tra việc học của một học sinh, hoặc một nhóm để phát hiện những học sinh chưa tích cực, học sinh gặp khó khăn trong quá trình học và hỗ trợ kịp thời những học sinh yếu để giúp các em hoàn thành nhiệm vụ học tập. Thông qua quan sát, kiểm tra, giáo viên đánh giá sự chuyên cần, tích cực của mỗi học sinh; đánh giá hoạt động của từng nhóm và vai trò điều hành của mỗi nhóm trưởng, chọn thời điểm thích hợp để chốt lại những vấn đề cơ bản của bài học, đánh giá hoạt động học của các cá nhân, các nhóm và cả lớp, tạo cơ hội để mỗi học sinh, mỗi nhóm tự đánh giá tiến trình học tập của mình. Mặt khác, cần trao đổi, giúp giáo viên khi dự giờ và đánh giá tiết dạy, khác với chương trình hiện hành, người dự không tập trung quan sát, đánh giá hoạt động của giáo viên mà đánh giá quá trình học, kết quả học của học sinh.Việc đánh giá dựa vào các bước lên lớp của bài học, đánh giá hoạt động và kết quả học tập của mỗi nhóm và mỗi học sinh. Khi đánh giá cần tập trung vào những vấn đề như : Học sinh có thực sự tự học, tự giác, tích cực không? Các em có thực hiện đúng các bước lên lớp ? Các nhóm có hoạt động đều tay, sôi nổi? Nhóm trưởng điều hành nhóm có tốt? Các hoạt động học diễn ra đúng trình tự logic? Học sinh có hoàn thành các hoạt động nêu trong sách, có hiểu bài, nắm được bài, hoàn thành mục tiêu bài học không? Giáo viên có khắc chốt và điều chỉnh tài liệu hợp lý chưa, sáng tạo ở điểm nào? 
 Khi đánh giá học sinh, giáo viên cần đánh giá học sinh thông qua việc quan sát về tinh thần, thái độ học tập, tính tự giác, tích cực tham gia hoạt động nhóm; tính hợp tác, thực hiện điều hành của nhóm trưởng; Kết quả thực hiện các hoạt động trong bài, đối chiếu với mục tiêu bài học và ghi chép của học sinh. Mặt khác, giáo viên còn giúp học sinh biết tự đánh giá, bằng cách đánh giá việc hoàn thành từng hoạt động trong bài học, đánh giá kết quả đạt được sau mỗi hoạt động, sau bài học; và đánh giá việc hoàn thành mục tiêu bài học. Đánh giá hoạt động của nhóm về tinh thần, thái độ, sự tương tác với bạn bè, thời gian và chất lượng hoàn thành hoạt động học và kết quả các hoạt động học tập. Ngoài ra, giáo viên cùng Cộng đồng đánh giá học sinh về các mặt: Có thường xuyên trò chuyện với cha mẹ việc học ở trường; có thực hiện chăm sóc cây cối, vật nuôi, sức khỏe bản thân và người thân trong gia đình; sự tự tin trong trao đổi, trò chuyện, giao tiếp; khả năng diễn đạt, đối thoại, tương tác; sự chuyên cần, tiến bộ trong học tập. Như vậy, có nắm vững cách đánh giá thì mới rút kinh nghiệm, khắc phục những tồn tại, hạn chế, thiếu sót để điều chỉnh và học hỏi đồng nghiệp những điểm tốt, những cách làm hay, sáng tạo và khuyến khích, tạo cơ hội kịp thời để việc dạy học đạt hiệu quả hơn. 
 1.2. Bồi dưỡng GV về cách điều chỉnh nội dung dạy học, cách chọn thời điểm khắc chốt kiến thức, khai thác các công cụ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_cua_hieu_truong_nham_nang_cao.doc