SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học tích hợp liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức’’.
MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 1.Mở đầu 1 2 2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 3 3 2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 4 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 5 2.3. Các biện pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề 5 6 2.2. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 10 7 3. Kết luận, kiến nghị 11 MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức’’. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã chỉ rõ: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục đề ra mục tiêu phát triển KT-XH, trong đó mục tiêu trực tiếp là: “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Để đạt mục tiêu đó thì giáo dục và công nghệ đóng vai trò quyết định “ Giáo dục và Đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu”. Nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học từ xưa đến nay là nhiệm vụ quan trọng nhất, thường xuyên nhất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình dạy học nói riêng và quá trình phát triển của nhà trường nói chung. Sự tồn tại cũng như sự phát triển của sự nghiệp giáo dục là do chất lượng dạy học - giáo dục quyết định. Vì vậy cần đổi mới quản lý giáo dục, quản lý nhà trường để chất lượng dạy học thành nền móng và là động lực chính cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia. Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) đã xác định: “Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục khả năng tư duy sáng tạo và khả năng thực hành”. Nghị quyết cũng đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trong đó đổi mới công tác quản lý giáo dục là một giải pháp quan trọng. Điều 28, Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh”. Trước yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông, việc nâng cao chất lượng giáo dục là yêu cầu cấp thiết mang tính chiến lược, trong đó việc đổi mới công tác quản lý, hoạt động dạy của người thầy giữ vai trò quan trọng, khởi nguồn cho sự chuyển biến chất lượng giáo dục và đào tạo. Ngày 04/10/2014, theo công văn số 5111/BGĐT-GDTrH “Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn và cuộc thi dạy học theo chủ đề tích hợp” đã được triển khai thực hiện. Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học, được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của chủ động, sáng tạo của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với nhau, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau. Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo dạy học tích hợp liên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy” làm đề tài nghiên cứu. 1.2. Mục đích nghiên cứu Giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn một cách phù hợp và hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các biện pháp chỉ đạo dạy học theo hướng tích hợp liên môn để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu liên quan như: Phương pháp dạy học phân hoá, Tài liệu về đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, Phân phối chương trình, Tài liệu về dạy học tích hợp, các bài giảng của giáo viên có tích hợp liên môn, Phương pháp điều tra: Điều tra gián tiếp bằng cách dự giờ của giáo viên rồi tự đánh giá và điều tra trực tiếp bằng cách hỏi học sinh về sự hứng thú, khả năng tiếp thu bài học, nhất là các bài học được cho là khó. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp liên môn là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường, chuẩn bị cho việc đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa (SGK) bắt đầu từ năm 2015 nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tại diễn đàn giáo dục ngày 02/11/2013, Thứ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo Nguyễn Vinh Hiển cho biết đã xác định được mục tiêu chung của giáo dục là phát triển con người một cách toàn diện thì cần phải áp dụng nguyên lý tích hợp trong dạy học. Theo ông: “Chương trình cần quan tâm hơn đến những nội dung dạy học gắn với cuộc sống, phải tạo điều kiện, phải yêu cầu, phải kiểm tra đánh giá kết quả học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề gặp phải trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày. Bất kì một vấn đề gì của cuộc sống khi giải quyết cũng cần huy động tổng hợp đồng thời nhiều kiến thức khác nhau, do đó cần phải quán triệt phương châm dạy học tích hợp”. Theo tiến trình đề ra, việc xây dựng chương trình và SGK sau năm 2015 sẽ hướng đến việc hình thành năng lực cho người học thay vì tập trung vào nội dung kiến thức như hiện nay với quan điểm chủ đạo là dạy học theo nguyên lý tích hợp. GS.TS Đinh Quang Báo - Thường trực ban chỉ đạo Đề án Đổi mới chương trình và SGK phổ thông sau 2015 cho biết dạy học tích hợp đã trở thành nguyên lý cơ bản của giáo dục hiện đại. Theo báo cáo kết quả của nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam trong Hội thảo “Dạy học tích hợp - Dạy học phân hóa trong chương trình giáo dục phổ thông” vừa được Bộ giáo dục và đào tạo tổ chức vào tháng 12/2012, phương án tích hợp đã được đề xuất cho việc phát triển chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau 2015 ở cả ba cấp: Tiểu học, Trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT). Cụ thể ở cấp THCS, tương tự như chương trình hiện hành, tăng cường tích hợp trong nội bộ môn học Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Công nghệ, Giáo dục công dân, và lồng ghép các vấn đề như môi trường, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản, vào các môn học và hoạt động giáo dục. Để khuyến khích giáo viên sáng tạo, thực hiện dạy học theo chủ đề, chủ điểm có nội dung liên quan đến nhiều môn học và gắn liền với thực tiễn; góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập, tăng cường ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học; khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức của các môn học khác nhau để giải quyết các tình huống thực tiễn; tăng cường khả năng tự học, tự nghiên cứu, thúc đẩy việc gắn kiến thức lý thuyết và thực hành trong nhà trường với thực tiễn đời sống, Bộ giáo dục và đào tạo đã tổ chức cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn ”dành cho học sinh trung học và cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích hợp”dành cho giáo viên trung học. Những căn cứ này cho thấy, dạy học tích hợp liên môn là một trong những phương pháp dạy học tích cực, thiết thực, đem lại hiệu quả cao cho người học và người dạy. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Tình hình cơ bản của nhà trường Trường THCS Xuân Lam có 02 tổ chuyên môn là tổ Khoa học Tự nhiên và Khoa học Xã hội, mỗi tổ có 6 giáo viên. Năm học 2016-2017, nhà trường có 170 học sinh, mỗi khối có từ 1 đến 2 lớp nên chất lượng học sinh không đồng đều ở các lớp do không có điều kiện để lựa chọn. Chất lượng học sinh giỏi của trường đã từng bước được nâng lên nhưng chưa cao và chưa bền vững, chất lượng đại trà trong những năm gần đây tương đối ổn định và đảm bảo dựa theo tỉ lệ lên lớp hàng năm là 98,4%; kết quả thi vào lớp 10 chưa được đánh giá cao trong huyện (72% học sinh thi có điểm từ 25 trở lên). 2.2.2. Những khó khăn của giáo viên, học sinh khi chưa thực hiện dạy học tích hợp liên môn - Giáo viên: Ngoài việc nắm vững chuyên môn của mình, giáo viên còn phải tìm hiểu thêm kiến thức các môn học khác nên mất nhiều thời gian và công sức. Vì vậy mà một bộ phận không nhỏ giáo viên ngại khó, ngại vất vả nên chưa thực sự tự giác tích hợp liên môn trong giảng dạy thường ngày mà chỉ thực hiện khi có giờ thao giảng hoặc ngoại khóa. Do thói quen còn ảnh hưởng bởi phương pháp truyền thụ kiến thức một chiều, tính bảo thủ, độc tôn phương pháp dạy học theo phân môn, nên có không ít giáo viên coi nặng việc truyền thụ kiến thức có trong sách giáo khoa theo lối dạy nhồi nhét kiến thức để thi cử, ít vận dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp giáo dục để học sinh được bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng sống. Trình độ đào tạo giáo viên không đồng đều và ít chịu tìm hiểu kiến thức ở các môn học khác nên có sự tranh luận nhiều về kiến thức trong các lần góp ý, rút kinh nghiệm từ các giờ thao giảng. - Học sinh: Một bộ phận học sinh có thái độ thờ ơ, ngại trau dồi kiến thức, học đối phó, miễn cưỡng, tư tưởng ỷ lại, dựa vào các tài liệu có sẵn, các sách tham khảo, không ủng hộ giáo viên trong quá trình giảng dạy. Nhiều học sinh thiếu kiến thức thực tế, kỹ năng sống,... Trên cơ sở tìm hiểu tình hình của nhà trường, thực trạng của giáo viên, học sinh, ngay từ đầu năm học 2015 – 2016 (tháng 9/2015), nhà trường đã tổ chức thi giáo viên giỏi cấp trường. Với vai trò là một giám khảo, tôi đã dự giờ tất cả các đồng chí giáo viên và thu được kết quả cụ thể: Tổng số giáo viên dự thi Không biết vận dụng kiến thức liên môn Vận dụng tổng hợp kiến thức nhiều môn học SL % SL % 12 9 75.0 3 25.0 Và qua khảo sát học sinh về việc hứng thú, hiểu bài (nhất là các bài khó) khi được học theo cách tích hợp liên môn thì thu được kết quả: Tổng số học sinh tham gia khảo sát Không hứng thú, không hiểu bài Hứng thú, hiểu bài Rất hứng thú, hiểu bài SL % SL % SL % 163 58 52.2 47 28.8 31 19.0 Từ kết quả trên, tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu, đưa ra một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo hướng tích hợp liên môn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong trường là điều rất cần thiết, hoàn toàn phù hợp với xu thế đổi mới nội dung sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh hiện nay. 2.3. Các biện pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, giáo viên về dạy học tích hợp liên môn Thực tế cho thấy, việc chỉ đạo, triển khai phương pháp dạy học vận dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp hiện nay chưa được quan tâm sâu sát, đôi khi hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả, chưa được kiểm tra và đôn đốc thường xuyên nên kết quả mang lại chưa cao, vì nhiều lí do khách quan và chủ quan nên vẫn còn nhiều giáo viên trong nhà trường chưa thực sự nắm rõ mục đích, nội dung của phương pháp dạy học này. Vì vậy để giúp giáo viên nhận thức và vận dụng có hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp liên môn, việc đầu tiên chúng tôi làm là nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ giáo viên. - Quán triệt cho tổ chuyên môn nắm vững chức năng, nhiệm vụ của tổ chuyên môn trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Từ đó định hướng công việc rõ ràng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện. - Xây dựng các văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể các công việc đối với tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn. - Nắm hoàn cảnh toàn diện của giáo viên: Lịch sử bản thân, quá trình đào tạo, khả năng công tác trình độ chuyên môn, hoàn cảnh gia đình, sở trường nguyện vọng... - Định hướng cụ thể, rõ ràng từng công việc thực hiện trong từng tuần, từng tháng, từng học kì. Từ tháng 10 của năm học 2015-2016, nhà trường đã tổ chức lớp tập huấn cho toàn thể cán bộ, giáo viên trong nhà trường nhằm quán triệt quan điểm tích hợp liên môn với các nội dung : + Một số cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về dạy học tích hợp liên môn . + Mục tiêu, tầm quan trọng của dạy học tích hợp liên môn trong việc nâng cao chất lượng dạy học. + Một số nguyên tắc xây dựng bài dạy theo hướng tích hợp liên môn. + Quy trình, phương pháp xây dựng bài dạy theo hướng tích hợp liên môn. + Những kĩ năng cơ bản khi xác định nội dung tích hợp để đem lại hiệu quả cao cho người dạy và người học 2.3.2. Chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện - Thông qua hoạt động của tổ chuyên môn giáo viên có điều kiện chia sẻ, góp ý rút kinh nghiệm cho nhau về vấn đề dạy học. - Trong sinh hoạt tổ chuyên môn, cÇn trao đổi nội dung bài dạy, tiết dạy cụ thể trong từng tuần, qua đó xác định nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế cho bài dạy. - Chỉ đạo cho các tổ chuyên môn, bước đầu vận dụng kiến thức liên môn để xây dựng các bài dạy, các chủ đề dạy học. - Xác định được năng lực có thể phát triển cho học sinh trong mỗi chủ đề; biên soạn câu hỏi, bài tập để đánh giá năng lực của học sinh; tổ chức dạy học để dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm. - Yêu cầu mỗi tổ chuyên môn xây dựng tối thiểu 2 chủ đề/ học kì. - Xác định nội dung bài dạy ®·: Đảm bảo tính chính xác, trọng tâm về kiến thức cha? Nội dung bài dạy có bám sát chuẩn KTKN hay không? 2.3.3. Xây dựng và lựa chọn nội dung bài học Công việc đầu tiên mang tính nguyên tắc đó là phải xác định cho được mục tiêu dạy học cần đạt được, từ đó xây dựng và lựa chọn các nội dung dạy học. a. Xây dựng mục tiêu tích hợp Dạy học tích hợp liên môn nhằm xây dựng kiến thức tích hợp, bồi dưỡng và phát triển các năng lực cốt lõi. Điều này có nghĩa cần diễn đạt chính xác kiến thức, thái độ và năng lực cần đạt khi viết mục tiêu dạy học. Mục tiêu dạy học cần đạt có tính đến các nguyên tắc tích hợp hay không? Có tính đến sự hợp tác và làm việc theo nhóm hay không? Có xác định rõ ràng các loại kiến thức tích hợp nhằm tới và sản phẩm dự kiến từ phía người học hay không? Năng lực cốt lõi có thể làm chỗ dựa cho việc phát triển những năng lực chuyên biệt của môn học, năng lực phương pháp, năng lực xã hội và giao tiếp hay không? Việc tính đến các câu hỏi trên sẽ giúp xác định một cách cân bằng sự đóng góp các kiến thức của các môn học khác nhau trong bài học cũng việc bồi dưỡng và phát triển năng lực của người học. b. Xây dựng và lựa chọn chủ đề Dạy học tích hợp liên môn bắt đầu với việc xác định một chủ đề để huy động kiến thức. Các chủ đề cần kiến thức của nhiều môn học để xử lí hoặc giải quyết một vấn đề không phải chỉ của một môn học. Nhưng đó cũng chính là tạo cảm hứng khi nó kích thích sự quan tâm và trí tò mò của học sinh. Lựa chọn một chủ đề mang tính thách thức và kích thích người học dấn thân vào quá trình suy nghĩ và làm việc là điều cần thiết trong dạy học theo tiếp cận liên môn. Đặc trưng của liên môn là một tổng thể các thành phần có mối liên hệ với nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau. Do vậy, để lựa chọn và xây dựng nội dung bài học trong dạy học tích hợp liên môn cần thấy được sự phát triển các kiến thức thuộc chủ đề trong một môn học cũng như mối quan hệ về chủ đề giữa các môn học khác nhau. Không phải bất kì chủ đề nào cũng có thể thực hiện dạy học tích hợp liên môn. Các chủ đề gắn với thực tiễn, gắn với nhu cầu của người học sẽ có nhiều cơ hội để tổ chức dạy học tích hợp liên môn. Các môn học vẫn được phát triển riêng rẽ để đảm bảo tính hệ thống, mặt khác, vẫn thực hiện được sự liên kết giữa các môn học khác nhau. Để lựa chọn và xây dựng nội dung dạy học, giáo viên phải có hiểu biết sâu sắc về chương trình và đặt chương trình các môn học cạnh nhau để so sánh, để tôn trọng những đặc trưng nhằm dẫn học sinh đạt tới mục tiêu dạy học xác định. Việc phân tích mối quan hệ giữa các môn học khác nhau trong chủ đề cũng như sự phát triển các kiến thức trong cùng môn học sẽ được thực hiện theo hai cách “đọc”: đọc thẳng đứng và đọc nằm ngang, nhằm đảm bảo nguyên tắc tích hợp và hợp tác. Đọc thẳng đứng là việc thực hiện đọc các chương trình để nắm bắt sự liên tục, sự phát triển của các kiến thức. Thực hiện việc đọc thẳng đứng chương trình học (theo chủ đề) trong tính toàn vẹn của nó để xác định các mục tiêu cần dạy ở các trình độ khác nhau. Việc đọc thẳng đứng cho phép phân biệt các mức độ yêu cầu khác nhau về chủ đề như kiến thức, thái độ, năng lực hoặc kĩ năng đặc thù. Đọc nằm ngang dành cho việc xem xét các môn khác nhau theo cách loại trừ. Nó cho phép xác định các kiến thức, kĩ năng cần đạt bên trong mỗi chương trình học. Điều này cho phép tránh việc lặp lại không cần thiết và khoanh vùng các kĩ năng cần phát triển theo cách đảm bảo các hoạt động đa dạng và có tính kích thích phù hợp với các trình độ khác nhau. Việc đọc nằm ngang cũng giúp giáo viên xác định các mục tiêu cần truyền tải bởi các môn khác nhau và xác định được các nội dung cần tích hợp cũng như các địa chỉ tích hợp. Khoa học tự nhiên là lĩnh vực nghiên cứu về thế giới tự nhiên, nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển chung nhất của giới tự nhiên. Kiến thức của lĩnh vực khoa học tự nhiên có thể đến từ các phân môn khác nhau như: Sinh học, Vật lý, Hóa học, Khoa học trái đất và không gian. Có nhiều cách tiếp cận để xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên như: - Tiếp cận dựa trên các đối tượng của giới tự nhiên nhưng có mối quan hệ gần gũi, gắn bó với cuộc sống của con người như nước, không khí, ánh sáng; - Tiếp cận dựa trên nguyên lí khai thác và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên Với hai cách tiếp cận, cùng với việc đọc thẳng đứng và đọc nằm ngang chương trình các môn học, giúp giáo viên khi xây dựng và lựa chọn các chủ đề có thể trả lời được các câu hỏi: + Vì sao lựa chọn chủ đề này? + Chủ đề gồm những nội dung của các môn học nào? + Mối quan hệ giữa các nội dung đó như thế nào? c. Phân tích một ví dụ Các hiện tượng liên quan đến sự nở vì nhiệt của các chất khá phổ biến, gần gũi với đời sống của học sinh, đặc biệt là học sinh trung học cơ sở. Hơn nữa, các hiện tượng nở vì nhiệt có mặt không chỉ trong môn Vật lí mà cả trong môn Sinh học, Công nghệ. Vì vậy, việc lựa chọn chủ đề dựa trên cách tiếp cận đối tượng học. Chủ đề có những thí nghiệm kiểm tra các dự đoán về sự nở vì nhiệt đơn giản với các dụng cụ gần gũi với học sinh. Do đó, học sinh có thể đề xuất được các dự đoán, giả thuyết cho đến các phương án thí nghiệm và tự lực tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu. Từ “đọc” thẳng đứng chương trình, cho thấy: Chương “Nhiệt học” của Vật lí 6, học sinh được nghiên cứu các kiến thức liên quan đến chất rắn, chất lỏng, chất khí như: Sự nở vì nhiệt của các chất và những ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống; Sự chuyển thể của các chất: sự n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_day_hoc_tich_hop_lien_mon_de_n.doc