SKKN Một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Nga Văn

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Nga Văn

Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng, chính là phương thức chuyển hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói cách khác, đó là phương thức và quá trình chuyển những nguyên tắc, những chuẩn mực, những quan điểm và lý tưởng đạo đức của xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm tin và trí thức, thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá nhân, thành năng lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con người. Công việc này phải tiến hành thường xuyên phải rèn luyện bền bỉ hàng ngày, phải coi đây là công việc của tất cả mọi người và diễn ra mọi lúc mọi nơi. Đây cũng là một công việc hết sức khó khăn, nó đòi hỏi sự nỗ lực, tính tự kiềm chế và cả tính kiên trì. Một con người hôm nay là tốt nhưng chưa có gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng, ngày mai, ngày kia, anh ta cũng vấn là người tốt. Cho nên mỗi con gười, trong suốt cuộc đời của mình, cần phải nỗ lực rèn luyện liên tục để khẳng định và vươn tới cái thiện, chống lại cái ác trong cuộc sống và ngay cả trong chính bản thân mình.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức. Có thể nói, chưa bao giờ sự nghiệp giáo dục của nước ta lại phải chịu nhiều tác động bởi cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Khi đời sống Kinh tế - xã hội có sự thay đổi, với các chính sách mở cửa, hội nhập với thế giới có những tác động tích cực và tiêu cực tới nhà trường phổ thông. Với học sinh, các em có nhiều điều kiện tiếp xúc với nhiều luồng thông tin và các luồng văn hóa khác nhau. Vì vậy, những quan điểm đạo đức truyền thống cũng bị mai một phần nào. Một bộ phận học sinh đã quên đi những thuần phong, mỹ tục, bản sắc văn hóa quý báu của dân tộc, thay vào đó là lối sống thực dụng, đua đòi, ích kỷ.

 

doc 17 trang thuychi01 6351
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Nga Văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. PHẦN MỞ ĐẦU
 - Lý do chọn đề tài
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng, chính là phương thức chuyển hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói cách khác, đó là phương thức và quá trình chuyển những nguyên tắc, những chuẩn mực, những quan điểm và lý tưởng đạo đức của xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm tin và trí thức, thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá nhân, thành năng lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con người. Công việc này phải tiến hành thường xuyên phải rèn luyện bền bỉ hàng ngày, phải coi đây là công việc của tất cả mọi người và diễn ra mọi lúc mọi nơi. Đây cũng là một công việc hết sức khó khăn, nó đòi hỏi sự nỗ lực, tính tự kiềm chế và cả tính kiên trì. Một con người hôm nay là tốt nhưng chưa có gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng, ngày mai, ngày kia, anh ta cũng vấn là người tốt. Cho nên mỗi con gười, trong suốt cuộc đời của mình, cần phải nỗ lực rèn luyện liên tục để khẳng định và vươn tới cái thiện, chống lại cái ác trong cuộc sống và ngay cả trong chính bản thân mình.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức. Có thể nói, chưa bao giờ sự nghiệp giáo dục của nước ta lại phải chịu nhiều tác động bởi cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Khi đời sống Kinh tế - xã hội có sự thay đổi, với các chính sách mở cửa, hội nhập với thế giới có những tác động tích cực và tiêu cực tới nhà trường phổ thông. Với học sinh, các em có nhiều điều kiện tiếp xúc với nhiều luồng thông tin và các luồng văn hóa khác nhau. Vì vậy, những quan điểm đạo đức truyền thống cũng bị mai một phần nào. Một bộ phận học sinh đã quên đi những thuần phong, mỹ tục, bản sắc văn hóa quý báu của dân tộc, thay vào đó là lối sống thực dụng, đua đòi, ích kỷ...
Cho nên, việc tăng cường đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức vừa là yêu cầu của công cuộc đổi mới về kinh tế - xã hội, vừa là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển con người và xây dựng một môi trường đạo đức lành mạnh của xã hội.
Đối với học sinh THCS Nga Văn, nơi tôi đang công tác, trong những năm qua cũng không nằm ngoài tình trạng chung của xã hội. Một số học sinh có lối sống đua đòi, ham chơi, lười biếng trong học tập và rèn luyện. Mặc dù các thầy cô giáo đã làm nhiều, nói nhiều, công sức bỏ ra không ít nhưng kết quả thu được vẫn còn hạn chế. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải có biện pháp giáo dục đạo đức hữu hiệu nhằm góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh.
Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường tôi quyết định chọn đề tài: “ Một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Nga Văn”.
 - Mục đích nghiên cứu
 Từ cơ sở lý luận và thực tiễn ở trường THCS Nga Văn nơi bản thân tôi đang công tác, đề xuất một số biện pháp thích hợp và khả thi về công tác chỉ đạo giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
 - Nhiệm vụ nghiên cứu
 + Nghiên cứu một số lý luận có liên quan đến công tác giáo dục đạo đức học sinh.
 + Phân tích, đánh giá thực trạng của việc giáo dục đạo đức học sinh của trường THCS Nga Văn.
 + Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường THCS Nga Văn.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 + Các biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THCS.
 + Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của trường THCS Nga Văn năm học 2015-2016.
 - Phương pháp nghiên cứu
 + Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn kiện của Đại hội Đảng các cấp, Luật giáo dục, tham khảo một số tài liệu có liên quan đến đề tài.
 + Nghiên cứu thực tiễn: Căn cứ vào tình hình nhà trường và thực tế kinh nghiệm của bản thân trong công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường.
 + Các phương pháp hỗ trợ: Thống kê, lập biểu, phân tích.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo quan niệm Phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, Nho giáo đều lấy đức làm cơ sở trong đối nhân, xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác. Đạo đức có nghĩa là đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, làng xóm, bạn bè, tu thân, dưỡng tâm...theo những định hướng giá trị nhất định.
Còn ở Phương Tây, người ta quan niệm: đạo đức là lĩnh vực của con người mà hành vi, các mối quan tâm, những tình cảm được chia sẻ giữa người này và người khác theo những mục tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan tới tự do và trật tự phức tạp của cộng đồng.
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác và Ăngghen đã xây dựng một học thuyết có tính cách mạng, gắn đạo đức với các phương thức sản xuất. Khi phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo đức dù nhanh hay chậm cũng thay đổi theo. Vì thế, đạo đức trước hết là một hình thái ý thức xã hội, phản ảnh các quan hệ lợi ích, thiện ác của xã hội. Trên cơ sở đó, các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác quan niệm:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với nhau và con người với tự nhiên. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng bị quy định bởi tồn tại xã hội và chịu ảnh hưởng của các hình thái khác của ý thức xã hội, nhưng do tính độc lập tương đối của mình, đạo đức có sự tác động trở lại tồn tại xã hội và các hình thái khác thông qua hoạt động của con người. 
Chính vì thế, giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của các nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình.
Giáo dục đạo đức giữ vai trò hết sức quan trọng. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng.
Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống. Trong nhà trường, nếu công tác giáo dục đạo đức được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên vì ý thức đạo đức có liên hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm đạo đức trong thanh thiếu niên và học sinh ngày càng có xu hướng gia tăng, các hành vi vi phạm đạo đức của học sinh diễn ra ở nhiều góc độ như: vi phạm pháp luật, đánh nhau, uống rượu bia, cờ bạc, trộm cắp... Một số hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức như không vâng lời cha mẹ, vô lễ với thầy cô giáo, thiếu kính trên nhường dưới, sống hưởng thụ, lười học tập và lao động, thiếu ý thức rèn luyện...những vấn đề trên đặt ra cho gia đình, nhà trường và xã hội nhiều vấn đề cấp bách về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
Nguyên nhân xuất hiện những vi phạm đạo đức, lối sống ở thanh thiếu niên và học sinh xuất phát từ nhiều phía gia đình, nhà trường và xã hội. Về phía gia đình một bộ phận học sinh thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục đầy đủ của cha mẹ, gia đình. Các bậc phụ huynh thiếu kiến thức, không chú ý đến sự phát triển tâm , sinh lý của con cái, nuông chiều thái quá, không nghiêm khắc, mải lo kiếm tiền, một số em phải thiếu trong cảnh thiếu vắng bố mẹ, cha mẹ bất hòa, ly thân, ly hôn, ít có thời gian gần gũi, chi sẻ, thậm chí thiếu gương mẫu. Sự thiếu hụt về tình cảm, sự phát triển lệch lạc, một số trẻ em đua đòi bị lôi kéo sa vào tệ nạn xã hội.
Bên cạnh đó, về phía nhà trường như chưa làm thật tốt chức năng dạy người, hoặc chưa quản lý tốt học sinh, chưa chủ động trong việc phối hợp với gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh, nội quy, quy định thực hiện chưa nghiêm, nội dung chương trình nặng về lý thuyết, chưa quan tâm tổ chức các hoạt động để học sinh thể hiện kỹ năng ứng xử, chưa chăm lo đến sự phát triển toàn diện cho các em học sinh, một bộ phận nhỏ nhà giáo nhận thức còn hạn chế, thiếu gương mẫu.
Về phía xã hội, toàn cầu hóa mang nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức cho giáo dục đạo đức học sinh. Hiện nay với sự phát triển mạnh về thông tin, các dịch vụ giải trí phim ảnh, Internet luôn tồn tại những mặt trái. Nếu không có quản lý, giám sát tốt các nội dung đồi trụy, bạo lực sẽ gây những tác động không nhỏ tới các em ở lứa tuổi tâm sinh lý chưa ổn định, chưa làm chủ được bản thân. Trong khi cha mẹ thầy cô, người lớn chưa quan tâm, chưa hiểu hết được tâm lý, tình cảm của trẻ, thiếu tư vấn định hướng. Có thầy cô cho rằng đó là việc của giáo viên chủ nhiệm, của giáo viên dạy giáo dục công dân , của cán bộ quản lý giáo dục. Trong gia đình cũng còn khá phổ biến quan điểm cực đoan như tuyệt đối hóa quyền lực giáo dục của cha mẹ hay thiên về phương pháp giáo dục nghiêm khắc, áp đặt, dùng vũ lực hoặc phó mặc trách nhiệm giáo dục con em mình cho nhà trường. Bởi thế khi gặp khó khăn trong cuộc sống các em không biết cách xử lý, đối mặt với thực tại. Như vậy có thể thấy các lực lượng xã hội tham gia giáo dục học sinh chưa có phương pháp giáo dục phù hợp.
Trường THCS Nga Văn được công nhận đạt chuẩn Quốc gia năm 2011, cho đến nay nhà trường luôn phát huy tốt yêu cầu và các tiêu chí thi đua của trường chuẩn. Chất lượng giáo dục luôn đứng tốp đầu của huyện, trường liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến được UBND huyện, UBND tỉnh tặng Bằng khen. Trường luôn được sự quan tâm, tạo điều kiện của Đảng ủy, UBND xã Nga Văn, sự chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT Nga Sơn. Đội ngũ CBGV nhà trường đạt chuẩn và trên chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, năng động, tâm huyết với nghề. Cơ cấu trường lớp tương đối ổn định. Năm học 2015-2016 trường có 8 lớp với 196 học sinh; có 25 CBGV trong đó có 20 giáo viên văn hóa, trường lớp khang trang sạch, đẹp, thân thiện.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THCS Nga Văn còn gặp nhiều khó khăn: đó là, trường chỉ có 1 giáo viên kiêm dạy mộn GDCD nên khó khăn trong công tác học tập, đúc rút kinh nghiệm tại đơn vị. Là địa bàn gần trung tâm huyện, bên cạnh sự phát triển của xã hội thì kéo theo các tệ nạn cũng phát triển, học sinh dễ bị lôi kéo bởi các trò chơi điện tử, đua đòi, ... Một bộ phận học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: bố mẹ ly tán, thiếu sự quan tâm dạy dỗ, mồ côi... ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách của các em.
Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn đó, trong những năm qua nhà trường đã luôn chú trọng công tác giáo dục đạo đức học sinh, thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm cuốn hút và tác động đến nhận thức trong sáng, lành mạnh, giáo dục niềm tin, tinh thần đoàn kết ở học sinh. 
Cụ thể: Tổ chức các Hội thi hái hoa dân chủ về chủ đề An toàn giao thông, giáo dục giới tính, Kể chuyện Bác Hồ...Tổ chức các buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần tuyên truyền về luật phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội; phát động các phong trào thi đua gương người tốt, việc tốt... Tổ chức sinh hoạt Đội vào thứ 7 hàng tuần nhằm giáo dục các em trở thành con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, trở thành đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Tổ chức dạy học lồng ghép giáo dục đạo đức học sinh trong các môn học khác. Phát huy tốt đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp. Phối kết hợp với các đoàn thể địa phương, gắn hoạt động nhà trường với thực tế để các em có cơ hội được tham gia, được phát huy năng lực và nhận thức của bản thân.
Nhìn chung các hoạt động ngoại khóa của nhà trường đã thu hút được các em học sinh, có tác dụng tích cực hình thành những phẩm chất đạo đức tốt, xây dựng lối sống tập thể, tinh thần hợp tác, tương trợ và ý thức chấp hành nội quy trường, lớp và pháp luật nhà nước.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những biểu hiện vi phạm đạo đức đó là: một số học sinh không chấp hành nội quy nhà trường, không tham gia tốt các hoạt động của trường, lớp của đoàn, đội đề ra. Còn có hiện tượng nói tục, gây gỗ với bạn bè trong và ngoài nhà trường. Ở một số đối tượng học sinh đôi lúc chưa trung thực, chưa có ý thức bảo vệ cơ sở vật chất của tập thể.
Nguyên nhân của tồn tại trên là do học sinh thiếu hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức cần thiết dẫn đến những hành vi vi phạm. Một số gia đình chức có biện pháp giáo dục con em đúng đắn, họ còn trông chờ vào nhà trường và xã hội, chính quyền địa phương và các lực lượng xã hội chưa thấy hết vai trò trách nhiệm của mình trong việc giáo dục thế hệ trẻ, chưa có sự phối kêt hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Một số giáo viên còn non về nghiệp vụ giáo dục đạo đức học sinh nên chất lượng giáo dục chưa cao.
Cụ thể: Năm học 2014-2015 chất lượng xếp loại đạo đức học sinh là:
Tổng số
 học sinh
Loại tốt
Loại Khá
Loại TB
Loại Yếu
216
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
190
87,9
22
10,1
3
1,3
1
0,7
Từ những thực trạng trên, làm thế nào để giải quyết vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi luôn suy nghĩ để tìm ra hướng đi phù hợp với điều kiện nhà trường, thực tế của địa phương nhằm nâng cao chát lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ngày một có hiệu quả hơn. Và năm học vừa qua tôi đã thực hiện một số biện pháp chỉ đạo, tạo sự chuyển biến tốt về chất lượng đạo đức học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2.3. Những biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS Nga Văn
 2.3.1. Xây dựng trong nhà trường môi trường giáo dục thân thiện, tích cực
Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực, ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội, là nơi đào tạo cho con người có trình độ, năng lực, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhằm phát triển toàn diện con người. Giáo dục nhà trường là giáo dục có bài bản, có hệ thống và kết hợp với nhiều loại hình giáo dục khác
Chính vì thế, việc xây dựng môi trường giáo dục là yêu cầu hết sức quan trọng, có một môi trường tốt thì mới ươm được những “mầm non” tốt. 
Môi trường nào cũng bao gồm khung cảnh, con người và mối quan hệ qua lại giữa chúng. Trong đó, con người là yếu tố trung tâm. Xây dựng môi trường sư phạm trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên, khung cảnh nhà trường và nề nếp học tập, sinh hoạt.
Mỗi thầy cô giáo không chỉ dạy học sinh bằng những hiểu biết của mình mà còn dạy học sinh bằng cuộc đời của mình. Vì thế hiệu trưởng phải phối hợp với Công đoàn xây dựng tập thể giáo viên, cán bộ thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Được học tập trong một nhà trường mà đội ngũ giáo viên, cán bộ đều giỏi chuyên môn, sống mẫu mực và hết lòng thương yêu học sinh các em sẽ phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm phấn đấu. Các em sẽ yêu mến và tự hào về nhà trường mình hơn vì tập thể ấy, mối quan hệ ấy đã gây ấn tượng giáo dục sâu đậm trong tâm hồn các em.
Khung cảnh nhà trường khang trang sạch đẹp chẳng những tác động đến giáo dục thẩm mĩ, đến sức khỏe của học sinh mà còn góp phần không nhỏ tạo nên môi trường thuận lợi trong công tác đức dục ở nhà trường.
Hiệu trưởng cần chăm lo đến quang cảnh chung của nhà trường nhằm tạo ra môi trường thuận lợi, ảnh hưởng tích cực đến giáo dục tình cảm đạo đức của học sinh.
Nề nếp công tác, sinh hoạt phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ giữa con người với công việc. Những mối quan hệ ấy càng mẫu mực nề nếp nhà trường càng tốt, và ngược lại nề nếp tốt sẽ củng cố các mối quan hệ đó. Người hiệu trưởng cần thấy rõ mối quan hệ này và coi công việc xây dựng nề nếp công tác sinh hoạt trong trường là một trong những công việc quan trọng. Để xây dựng nề nếp trước hết cần phải có quy chế, tổ chức thực hiện quy chế, thực hiện như một thói quen. Lúc ấy mới có thể coi là nhà trường đã có những nề nếp về công tác sinh hoạt.
Công tác giáo dục đạo đức là một trong những hoạt động giáo dục quan trọng bậc nhất trong nhà trường. Vì thế, đòi hỏi người hiệu trưởng phải thực sự quan tâm, trực tiếp chỉ đạo thực hiện đầy đủ những biện pháp quản lý để đảm bảo hiệu quả giáo dục cao.
2.3.2. Điều tra cơ bản tình hình học sinh và phân loại điều kiện giáo dục
Tính cách học sinh rất da dạng và việc hình thành tính cách chịu tác động của nhiều yếu tố nên công tác điều tra cơ bản có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
 * Nội dung điều tra càn tập trung những điểm chủ yếu sau
 - Tình hình tư tưởng, phẩm chất đạo đức học sinh.
 - Hoàn cảnh và môi trường giáo dục, hoàn cảnh gia đình, điều kiện dạy dỗ con cái, quan hệ của học sinh đối với cha mẹ, bạn bè, thầy cô
 * Hình thức và phương pháp điều tra
 - Cho học sinh tự kê khai, gặp gỡ học sinh trao đổi, thăm hỏi gia đình học sinh, qua học bạ và các hồ sơ của học sinh.
 - Khái quát đặc điểm của từng học sinh và so sánh, phân tính, tổng hợp sau đó đi đến kết luận và có phương pháp giáo dục phù hợp.
Công tác điều tra thực chất là thu thập thông tin và phần lớn được phản ánh thông qua chủ quan của người điều tra. Vì thế người hiệu trưởng cần dựa vào kinh nghiệm và kinh nghiệm giáo dục của mình để kiểm tra, đánh giá đọ tin cậy của những thông tin đó trước khi sử dụng vào việc phân tích.
Công tác điều tra không bao giờ tách rời công tác giáo dục và công tác tuyên truyền sư phạm. Trên thực tế quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục bao giờ cũng là dịp tốt để giáo viên hiểu thêm về đối tượng học sinh và thu thập được những tư liệu có giá trị phục vụ công tác giáo dục. 
2.3.3. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường
 - Trên cơ sở đặc điểm tình hình nhà trường, địa phương, nhiệm vụ năm học và thông tin thu nhập được từ đội ngũ, học sinh nhà trường hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên xây dựng Kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh trong năm học và cụ thể hóa đến từng tuần, từng tháng.
 - Từ kế hoach của giáo viên hiệu trưởng tổng hợp xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh toàn trường và triển khai thực hiện, có kiểm tra, đánh giá, coi đây là tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên, học sinh. Kế hoạch được thực hiện trong cả năm học, có cụ thể hóa cho từng giai đoạn, từng khối lớp, từng đối tượng học sinh.
 - Phát động phong trào thi đua theo từng chủ điểm: phong trào “uống nước nhớ nguồn” vào 20/11; phong trào “người tốt, việc tốt”; phong trào học sinh làm theo lời Bác vào 19/5
2.3.4. Tăng cường chỉ đạo phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
Nhà trường có nhiệm vụ giáo dục toàn diện, nhưng nhà trường không thể là nơi duy nhất đảm bảo hoàn toàn đầy đủ quá trình giáo dục toàn diện. Ngoài tác dụng giáo dục của nhà trường, trẻ em còn chịu sự tác động giáo dục của gia đình và xã hội. Vì vậy, việc thống nhất các lực lượng giáo dục và ảnh hưởng của gia đình - xã hội đã trở thành một vấn đề quan tâm ngày càng nhiều đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
	Công tác phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để tạo môi trường thuận lợi giáo dục học sinh là một phương pháp giáo dục tổng quát được xây dựng trong tất cả các hoạt động giáo dục của nhà trường. Nhà trường phải giữ vai trò chủ đạo trong việc xay dựng, tổ chức các lực lượng giáo dục, tạo môi trường thuận lợi để giáo dục toàn diện cho học sinh.
 * Lực lượng giáo dục trong nhà trường
Tập thể giáo viên chủ nhiệm: là những người có trách nhiệm chính giáo dục học sinh một cách toàn diện nên có trách nhiệm chính trong việc tổ chức và điều hành mọi hoạt động của học sinh. Nhiệm vụ cụ thể:
- Dựa vào Kế hoạch của nhà trường, xây dựng Kế hoạch lớp.
- Phối hợp với Đoàn- Đội, các tiểu ban ( văn nghệ, thể dục, lao động...) để tổ chức các hoạt động.
- Xây dựng, tổ chức bồi dưỡng nòng cốt của lớp.
- Phối hợp với địa phương để tổ chức các hoạt động xã hội.
- Đề ra quy ước về nề nếp của lớp phù hợp với nội quy của trường, đôn đốc thực hiện tốt nội quy.
Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo, đồng thời phát huy tính tích cực chủ động, ý thức tự giác, tinh thầ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_cong_tac_giao_duc_dao_duc_cho.doc