SKKN Kinh nghiệm tổ chức cho học sinh THCS đông lĩnh, thành phố Thanh Hóa thực hành có hiệu quả đối với các dạng bài trang trí ứng dụng

SKKN Kinh nghiệm tổ chức cho học sinh THCS đông lĩnh, thành phố Thanh Hóa thực hành có hiệu quả đối với các dạng bài trang trí ứng dụng

Xuất phát từ mục tiêu đổi mới phương pháp giáo dục toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác dạy và học, để đạt được mục tiêu chung “Nâng cao tính chủ động, phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo của học sinh” của tất cả các môn học trong nhà trường nói chung và môn mỹ thuật ở trường THCS nói riêng. Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ, cơ bản hình thành nhân cách con người mới, có hiểu biết trong cuộc sống và luôn khát khao vươn đến Chân – Thiện – Mĩ.

 Mỹ thuật là một trong những môn học đặc thù, giữ vai trò quan trọng trong giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ thông hiện nay. Đó là môn học về cái đẹp, khơi dậy sự tư duy sáng tạo trong tâm hồn trong sáng, ngây thơ và đáng yêu của lứa tuổi học sinh. Dạy nghệ thuật nói chung và dạy Mỹ thuật nói riêng không phải là đưa ra một công thức cứng nhắc để làm, để vẽ mà điều cốt lõi quan trọng là lối tư duy, tạo điều kiện cho sự phát triển trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo của các em.

 Thực tế dạy – học Mỹ thuật ở trường THCS không phải nhằm đào tạo họa sĩ hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho các em, chủ yếu tạo điều kiện cho các em có kiến thức cơ bản về cái đẹp, được tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, biết tạo ra và vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nhưng muốn học sinh có những cảm nhận, những cái nhìn đúng, không lệch lạc thì cần truyền đạt vốn kiến thức thẩm mỹ cơ bản và hữu ích.

 

doc 19 trang thuychi01 4720
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm tổ chức cho học sinh THCS đông lĩnh, thành phố Thanh Hóa thực hành có hiệu quả đối với các dạng bài trang trí ứng dụng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 	Xuất phát từ mục tiêu đổi mới phương pháp giáo dục toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác dạy và học, để đạt được mục tiêu chung “Nâng cao tính chủ động, phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo của học sinh” của tất cả các môn học trong nhà trường nói chung và môn mỹ thuật ở trường THCS nói riêng. Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ, cơ bản hình thành nhân cách con người mới, có hiểu biết trong cuộc sống và luôn khát khao vươn đến Chân – Thiện – Mĩ. 
 	 Mỹ thuật là một trong những môn học đặc thù, giữ vai trò quan trọng trong giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ thông hiện nay. Đó là môn học về cái đẹp, khơi dậy sự tư duy sáng tạo trong tâm hồn trong sáng, ngây thơ và đáng yêu của lứa tuổi học sinh. Dạy nghệ thuật nói chung và dạy Mỹ thuật nói riêng không phải là đưa ra một công thức cứng nhắc để làm, để vẽ mà điều cốt lõi quan trọng là lối tư duy, tạo điều kiện cho sự phát triển trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo của các em. 
	Thực tế dạy – học Mỹ thuật ở trường THCS không phải nhằm đào tạo họa sĩ hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho các em, chủ yếu tạo điều kiện cho các em có kiến thức cơ bản về cái đẹp, được tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, biết tạo ra và vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nhưng muốn học sinh có những cảm nhận, những cái nhìn đúng, không lệch lạc thì cần truyền đạt vốn kiến thức thẩm mỹ cơ bản và hữu ích.    
           Mặt khác, hiện nay phương pháp dạy học truyền thống “ đọc chép” thụ động không đáp ứng được lối tư duy sáng tạo, năng động và tích cực của học sinh. Có một câu nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước được”.  Vấn đề học tập của học sinh cũng vậy. Dù có bắt được các em ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, học sinh không thể học tốt được. Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh, người thầy cần biết tạo hứng thú, tạo tâm thế học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động có sức hút. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. 
 Với mục tiêu và chương trình cụ thể, dạy học mĩ thuật ở trường THCS tập trung vào 4 phân môn: 
1.Vẽ theo mẫu
2.Vẽ trang trí
3.Vẽ tranh
4 .Thường thức mỹ thuật
	Mỗi phân môn đều có vai trò riêng trong tổng thể bộ môn, có những mục tiêu hướng tới riêng, có những phương pháp dạy học riêng nhằm thu hút sự say mê hứng thú học tập sáng tạo của học sinh, nhưng qua thực tế công tác giảng dạy môn mỹ thuật ở trường THCS Đông Lĩnh, tôi nhận thấy các yếu tố đó chưa đủ sức thu hút học sinh vào các hoạt động học tập, sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình dạy học, tôi đã áp dụng một số cách thức tổ chức giờ học vào trong các hoạt động dạy học và đã đạt được những hiệu quả nhất định. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu: "KINH NGHIỆM TỔ CHỨC CHO HỌC SINH THCS ĐÔNG LĨNH, THÀNH PHỐ THANH HÓA THỰC HÀNH CÓ HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI CÁC DẠNG BÀI TRANG TRÍ ỨNG DỤNG "
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
	Trong chương trình Mỹ thuật THCS, nội dung dạy học của phân môn Vẽ trang trí chiếm một vị trí khá quan trọng và được phân bố đều cho tất cả các khối 6-7-8-9 
 Trong đó, những bài học trang trí cơ bản như trang trí hình vuông, hình chữ nhật, trang trí đường diềm, tìm hiểu về màu sắc và cách pha màu... chiếm một thời lượng rất khiêm tốn (5/30 tiết) và chủ yêu tập trung ở lớp 6. Những bài trang trí còn lại đều thuộc trang trí ứng dụng, ví dụ: Trang trí lọ hoa, trang trí bìa lịch, trang trí đĩa tròn... (lớp 7); trang trí quạt giấy, trình bày bìa sách, trang trí lều trại... (lớp 8); trang trí hội trường, tạo dáng và trang trí túi xách, tạo dáng và trang trí thời trang (lớp 9)... với mức độ từ đơn giản đến phức tạp. Có những bài trang trí ứng dụng tưởng như chỉ là trang trí đơn giản như trang trí nhãn vở, trang trí chữ, trang trí lọ hoa... nhưng thực chất là những bài trang trí rất hữu ích, gắn liền với đời sống sinh hoạt và học tập của học sinh.
	Vì vậy, mục đích chính của sáng kiến kinh nghiệm này là: sử dụng hiệu quả các phương pháp dạy học, đồ dùng dạy học, tạo mọi cơ hội (kể cả yêu cầu, ép buộc – giao nhiệm vụ) để mọi học sinh được tham gia vào các hoạt động học tập, chú trọng vào các phương pháp hướng dẫn học sinh thực hành, bồi dưỡng tình cảm bạn bè, ý thức trách nhiệm đối với tập thể, với nhóm...
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
	- Học sinh các khối 6-7-8 trường Trung học sơ sở Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa. (khối 9 học Mỹ thuật vào học kỳ 2).
	- Các bài vẽ trang trí thuộc lĩnh vực trang trí ứng dụng trong nội dung chương trình Mỹ thuật cấp THCS của Bộ GD&ĐT.
	- Các phương pháp dạy học Mỹ thuật THCS nói chung và các phương pháp dạy Vẽ trang trí nói riêng.
1.4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
	- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát. 
- Phương pháp điều tra, so sánh, liệt kê, đối chiếu, xử lý số liệu
- Phỏng vấn một số giáo viên có kinh nghiệm đã làm tốt công tác này.
- Phương pháp tổng hợp.... 
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CƠ SỞ LÝ LUÂN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trang trí là một nghệ thuật sắp xếp đường nét, hình mảng, hình khối, đậm nhạt, màu sắc trên mặt phẳng hay trong không gian để tạo nên sản phẩm hay hình thể đẹp hợp với nội dung, yêu cầu của từng loại.
Tiếp xúc với môn học trang trí ta thường bắt gặp các thuật ngữ: trang trí, trang hoàng, trang điểm, trình bày, bố cục, sắp xếp, hoá trang, thiết kế mỹ thuật
Tất cả các thuật ngữ trên đều có đặc điểm chung là tạo nên cái đẹp. Tuy nhiên không có cái đẹp chung chung, cái đẹp phải có riêng cho từng loại, từng nội dung và có mức độ yêu cầu khác nhau. Do vậy sử dụng đúng thuật ngữ là một điều cần thiết bởi mỗi thuật ngữ đều biểu hiện cho một mức độ của nội dung trang trí không như nhau.
- Trang trí: là dùng để gọi cho trang trí các hình cơ bản (đường diềm, hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn) hoặc các trang trí khác như: trang trí sân khấu, trang trí nội thất...
- Trang hoàng: dùng cho đại hội, đám cưói, lớp học, phòng ở (ví dụ: không ai nói trang hoàng đám ma bởi bản thân trang hoàng nó đã hàm chứa cái đẹp lộng lẫy, tưng bừng ...)
Như vậy, trang trí được dùng cho tên một phân môn của mỹ thuật ở trường học phổ thông, được học sinh thích thú học tập vì nó gắn liền với cuộc sống, học tập, vui chơi của các em. Trang trí không chỉ giúp cho học sinh tạo ra cái đẹp muôn màu, muôn vẻ mà còn phát triển khả năng suy nghĩ, tìm tòi để luôn có cái mới, cái khác, cái lạ. Học trang trí, các em được rèn luyện, bồi dưỡng, phát triển phẩm chất của người lao động, lao động sáng tạo không ngừng. 
	Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội về kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh, quốc phòng. Những năm vừa qua Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là về chất lượng giảng dạy, đào tạo. Cùng với nhu cầu phát triển ngày càng cao của con người về Đức - Trí - Thể , thì yếu tố thẩm mỹ cũng không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con người và của toàn xã hội.
	Giảng dạy mỹ thuật ở trường THCS cũng nhằm mục tiêu trên. trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần chú ý đặc điểm lứa tuổi học sinh, mỗi lứa tuổi có cách cảm nhận suy nghĩ và lý giải về cái đẹp khác nhau. Người lớn có cách cảm nhận lôgic và khoa học tạo nên một cái đẹp hoàn thiện, còn trẻ em thì có cách cảm nhận ngây thơ, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng, không vướng bận những nguyên tắc, trăn trở mà chủ yếu tập trung tình cảm sự yêu thích của mình vào bài vẽ. Vì vậy, bài vẽ học sinh thường đem lại cho ta nhiều cảm xúc và tình cảm mới lạ. Nhưng mỗi lứa tuổi, mỗi mức độ cách cảm nhận của con người mỗi đổi thay. Là người giáo viên dạy mỹ thuật cần nắm bắt được đặc điểm này của học sinh đễ có phương pháp giảng dạy tốt nhất, phát huy được năng lực sự đam mê của các em. Đồng thời cũng có những phương pháp dạy học, những cách thức tổ chức giờ học, tổ chức từng hoạt động sao cho sinh động, cuốn hút, tạo mọi điều kiện để tất cả học sinh cùng được tham gia vào quá trình học tập. Đúng như định hướng đổi mới phương pháp dạy học: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. 
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Trên thực tế giảng dạy nhiều năm qua, tôi nhận thấy một điều rằng: với những bài trang trí cơ bản như trang trí hình vuông, trang trí hình chữ nhật, hình tròn, đường diềm... học sinh làm bài rất tốt, đáp ứng được yêu cầu bài học. Nhưng với những dạng bài trang trí ứng dụng thì kết quả bài vẽ không được khả quan, nhất là với những bài trang trí ứng dụng đòi hỏi học sinh phải quan sát, tư duy nhiều như tranh cổ động, trình bày bìa sách, trang trí lễ hội, thời trang... Có chăng kết quả chỉ là sự sao chép, chắp vá một khuôn mẫu cụ thể nào đó. Thực trạng này đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều, làm thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú với lĩnh vực trang trí ứng dụng - một lĩnh vực nghệ thuật đầy tính sáng tạo và thực tiễn? Phương pháp truyền đạt tốt đã đủ sức hút đối với học sinh chưa? Đồ dùng dạy học với hình thức đẹp và có chất lượng liệu đã đủ sức khơi gợi sự sáng tạo trong mỗi học sinh...? Quá trình hướng dẫn học sinh thực hành, người giáo viên phải thực hiện như thế nào để có thể thu hút mọi đối tượng học sinh vào hoạt động...?
	Với bộ môn mỹ thuật hiện nay, giáo viên giảng dạy mỹ thuật còn thiếu, ít có cơ hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi mỗi trường chỉ có một giáo viên. việc trao đổi và thảo lụân gặp nhiều khó khăn. Đồng thời đây cũng là bộ môn mối được đưa vào gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của con người, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người lớn, mà tất cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
 Chính vì những trăn trở trên mà tôi đã có những khảo nghiệm, đổi mới, điều chỉnh và áp dụng vào trong quá trình giảng dạy của mình một phương pháp, một cách thức tổ chức mới cho học sinh được thỏa sức sáng tạo trong các bài trang trí ứng dụng.
2.3 CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 	 Để có cái nhìn tổng quan về sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã áp dụng đồng thời một số giải pháp/phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn
	Về các loại đồ dùng dạy học: 
Đó là: Mẫu vật thật: khăn trải bàn, lọ hoa, bìa sách... để học sinh dễ quan sát, dễ hiểu...
 Tranh ảnh, bài vẽ, hình minh họa: khắc sâu kiến thức cho học sinh...
Yêu cầu: Đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài học, có tính thẩm mỹ và được trình bày sạch sẽ, khoa học. (hiện nay đồ dùng dạy học chủ yếu do giáo viên tự sưu tầm, tự làm, một số ít do học sinh sưu tầm và mang đến lớp). 
	Về các phương pháp dạy học được áp dụng trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm:
	- Phương pháp trực quan.- Phương pháp quan sát.- Phương pháp vấn đáp.- Phương pháp gợi mở - Phương pháp nêu vấn đề.- Phương pháp trò chơi.- Phương pháp luyện tập.- Phương pháp làm việc theo nhóm...
Khảo sát: Để nắm bắt tình hình, ngay từ đầu năm học 2016-2017, tôi đã thực hiện một khảo sát nhỏ đối với học sinh khối 7 và 8 trường THCS Đông Lĩnh như sau: 
Khối 7: Tiết 7: Bài 5: Tạo dáng và trang trí lọ hoa
Khối 8: Tiết 1: Bài 4: Tạo dáng và trang trí chậu cảnh
	Lý do chọn 2 bài này: Đây là hai bài trang trí ứng dụng ở mức độ đơn giản, có nhiều hình ảnh minh họa trong sách giáo khoa và dễ thực hiện trong khuôn khổ thời gian của một tiết học. Kết quả bài vẽ thu được như sau:
KHỐI LỚP
TỔNG SỐ BÀI VẼ
XẾP LOẠI BÀI VẼ
GHI CHÚ
ĐẠT YÊU CẦU
TỶ LỆ
CHƯA ĐẠT YÊU CẦU
TỶ LỆ
Khối 7
72
50
69%
22
31%
Số lượng bài vẽ đẹp, có chất lượng, nổi bật: 1
Khối 8
70
53
76%
17
24%
Số lượng bài vẽ đẹp, có chất lượng, nổi bật: 1
	Trong quá trình quan sát học sinh làm bài cũng như thu bài và chấm, tôi rất băn khoăn: đây là hai bài trang trí ứng dụng ở mức độ đơn giản, nhưng chất lượng bài lại không cao, số lượng bài vẽ đẹp, có thể sử dụng cho tiết trưng bày cuối năm rất ít... Vì sao vậy? Khi thực hiện các bài vẽ trang trí ứng dụng có mức độ cao hơn thì kết quả sẽ như thế nào? Do bài giảng chưa hay? Do phương pháp dạy học chưa phù hợp? Do đồ dùng trực quan chưa sinh động ...? Do địa bàn trường ở khu vực nông thôn nên sự quan sát của học sinh đối với vấn đề còn nhiều hạn chế? Do thời gian thực hành trên lớp quá ngắn, không đủ để các em thể hiện ý tưởng của mình? Hay do cách thức tổ chức cho học sinh thực hành của giáo viên chưa phát huy được hết sự say mê sáng tạo của học sinh...? Hàng loạt câu hỏi được đặt ra... Sau nhiều thời gian trăn trở suy nghĩ, tôi đã mạnh dạn áp dụng những thay đổi như sau vào các bài dạy trang trí ứng dụng sau này:
 	Thông thường, với một tiết dạy Mỹ thuật – phân môn Vẽ trang trí – giáo viên sẽ thực hiện các bước lên lớp như sau (phần phân chia thời gian cho các hoạt động chỉ mang tính tương đối):
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét (khoảng 10-15 phút)
	- Giáo viên giới thiệu vấn đề cần tìm hiểu qua kênh hình (tranh ảnh, video...)
	-Tổ chức cho học sinh tìm hiểu vấn đề theo từng nhóm nhỏ (có thể chia nhóm theo tổ trong lớp hoặc theo đặc điểm vị trí ngồi của học sinh)
	- Các nhóm quan sát vấn đề qua các kênh hình, qua kênh thông tin trong sách giáo khoa, thảo luận thông qua hệ thống câu hỏi tìm hiểu vấn đề mà giáo viên đưa ra.
	- Các nhóm cử đại diện trình bày nội dung, sau đó giáo viên nhận xét, giải thích và đi đến kết luận của vấn đề.
Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh cách vẽ (khoảng 5 -10 phút)
Phần hướng dẫn cách vẽ ở các bài trang trí thường giống nhau về các bước cơ bản, nhưng những dạng bài trang trí ứng dụng sẽ khác nhau ở chỗ: tùy theo từng đồ vật được trang trí và mục đích sử dụng của nó mà có sự hướng dẫn trang trí cụ thể hơn để học sinh dễ hình dung, dễ hiểu.
Giáo viên yêu cầu một vài học sinh có thể trình bày ý định của mình: trang trí cái gì, để trang trí được sẽ làm như thế nào? Sau khi tóm tắt các ý kiến của học sinh, giáo viên hướng dẫn cách làm trực tiếp trên hình minh họa.
Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh làm bài tập (khoảng 20-25 phút)
	- Để gợi ý cho học sinh trước khi làm bài, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát một số bài vẽ của các học sinh lớp trước về nội dung này.
	- Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc cá nhân, mỗi học sinh thể hiện bài vẽ của mình trên giấy hoặc vở thực hành. Giáo viên bao quát lớp và gợi ý cho học sinh trong quá trình làm bài. 
Hoạt động 4: Củng cố bài (khoảng 5 phút)
	- Giáo viên có thể yêu cầu các nhóm tự chọn từ 1 đến 2 bài mà mình cho là đẹp và treo lên bảng (giáo viên cũng có thể chủ động lựa chọn bài vẽ để treo bảng theo mục đích cần nhận xét, nhắc nhở của mình).
	- Giáo viên nêu tiêu chí nhận xét bài và yêu cầu học sinh nhận xét, xếp loại, sau đó giáo viên tổng hợp ý kiến, nhấn mạnh những vấn đề cần điều chỉnh trong bài vẽ, dặn dò tổng kết giờ học.
Một số bài vẽ dạng trang trí cơ bản của học sinh
Trang trí đường diềm:
Trang trí hình vuông, hình tròn:
Một số bài vẽ dạng trang trí ứng dụng của học sinh
Tạo dáng và trang trí lọ hoa:
Trang trí đĩa tròn:
Trang trí chậu cảnh:
Trang trí quạt giấy:
Trang trí túi xách: 
Trang trí bìa sách: 
	Cách làm này đã phần nào có sự đổi mới trong phương pháp dạy học, học sinh đã được tham gia và các hoạt động học tập (trao đổi, tìm hiểu vấn đề, trình bày vấn đề và kết luận vấn đề). Ở phần thực hành, học sinh làm việc cá nhân, qua quan sát trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy, với những dạng bài trang trí ứng dụng, hiệu quả bài vẽ không cao, thời gian thực hiện bài vẽ trên lớp thường ít nên cuối giờ hầu hết học sinh không hoàn thành bài tập và thường phải để về nhà làm tiếp (có chăng chỉ một số đối tượng học sinh khá giỏi mới hoàn thành bài vẽ bằng chì). Chính sự ngắt quãng về thời gian đã hạn chế phần nào sự hứng thú sáng tạo trong học tập của học sinh, vì vậy những bài vẽ chỉ mang tính thủ tục, chất lượng bài vẽ không cao, lại càng khó để tìm ra vài bài nổi bật... Mặt khác, cũng chính vì sự không hoàn thành bài vẽ trên lớp mà phần củng cố bài thường dễ bị bỏ ngỏ, hiệu quả bài dạy vì thế chưa rõ rệt... 
Triển khai Sáng kiến kinh nghiệm: 
 (Tôi đã áp dụng phương pháp này vào một bài dạy cụ thể. Từ đó có thể liên hệ việc áp dụng phương pháp đối với các bài vẽ trang trí khác). 
Tiết 28 (Lớp 7): BÀI 28: VẼ TRANG TRÍ:
Trang trí đầu báo tường
 Để giờ học đạt kết quả cao, yêu cầu cả phía giáo viên và học sinh phải chuẩn bị đồ dùng trực quan, đồ dùng học tập đầy đủ và chu đáo.
 - Về giáo viên: Các đầu báo tường, tờ báo tường được trang trí đẹp trên sách báo; bài vẽ trang trí đầu báo tường của học sinh lớp trước; hình minh họa cách vẽ; các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài, giấy A2 hoặc A3 để học sinh vẽ theo nhóm...
 - Về học sinh: Sưu tầm các hình ảnh đầu báo tường trên sách báo, tập chí; đọc trước nội dung bài trong SGK; chuẩn bị đồ dùng học tập: chì, tẩy, màu vẽ
Giờ học được tiến hành như sau:
+ Giới thiệu bài: GV giới thiệu bài trực tiếp: Vào những dịp đặc biệt như kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của đơn vị, của các tổ chức... chúng ta thường thấy có những tờ báo có kích thước lớn, được trang trí đẹp mắt, nội dung hay và rất phong phú...
HĐ CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG BÀI HỌC
Hoạt động 1: 
GV gợi ý để HS tìm hiểu về ý nghĩa của tờ báo tường
? Em hiểu báo tường là gì? 
? Tờ báo tường thường hay ra mắt vào những thời gian nào?
GV giới thiệu 1 tờ báo tường hoàn chỉnh:
? Tờ báo tường gồm mấy phần? Phần nổi bật nhất ở đâu?
GV kết luận và nhấn mạnh vai trò của đầu báo: là bộ mặt của tờ báo -> vì vậy trình bày đầu báo đẹp và sinh động là một yêu cầu quan trọng của tờ báo...
GV cho HV quan sát một số đầu báo có sự sắp xếp và trang trí khác nhau, tổ chức cho HS tìm hiểu về đầu báo tường theo nhóm: mỗi nhóm 4 HS (2 bàn quay lại với nhau; mỗi lớp khoảng 8-10 nhóm và 2 nhóm cùng tìm hiểu 1câu hỏi)
Nhóm 1: ? Đầu báo tường gồm có những phần nào? Cách trình bày theo chủ đề của các số báo ?
Nhóm 2: ? Cách sắp xếp các thông tin trên đầu báo? Thông tin nào được trình bày nổi bật nhất? ý nghĩa của từng thông tin; hình minh họa trên đầu báo?
Nhóm 3: ? Các kiểu chữ được sử dụng trên đầu báo ? Kích thước của tên báo?
Nhóm 4: ? Màu sắc của đầu báo?
HS ổn định theo nhóm, cử nhóm trưởng và thư ký; Các nhóm quan sát đầu báo tường thảo luận và cử đại diện trả lời 
GV kết luận và phân tích trên đầu báo; HS quan sát và ghi chép nội dung bài học.
Hoạt động 2: 
GV nêu ra một số chủ đề của báo: chào mừng 8/3; 26/3; 30/4... ở mỗi chủ đề GV nêu gợi ý một vài hình ảnh có ý nghĩa liên quan và tên báo 
GV yêu cầu các nhóm lựa chọn cho mình một tên đầu báo, chủ đề báo và nêu lên các phương án thực hiện đầu báo
Các nhóm nghe và trình bày phương án thực hiện của nhóm mình
GV treo hình minh họa cách trang trí đầu báo và hướng dẫn cách trang trí đầu báo tường; HS quan sát và ghi chép
Hoạt động 3: 
GV tổ chức cho HS thực hành dưới dạng trò chơi: GV phát giấy A2/A3 cho các nhóm; yêu cầu tất cả HS làm việc như đã phân công theo nhóm: mỗi nhóm thực hiện một đầu báo tường .
GV cho HS quan sát một số bài vẽ đầu báo tường của HS các năm trước.
Các nhóm ổn định và phân công công việc cho từng thành viên.
GV gợi ý HS có thể phác thảo một vài bố cục để lựa chọn; Các nhóm quan sát bài vẽ và làm bài.
I. Quan sát và nhận xét
- Báo tường là số báo đặc biệt, ra đời chào mừng các ngày lễ lớn của đơn vị, của đất nước...
- Tờ báo tường gồm 2 phần chính: đầu báo và phần nội dung báo
- phần nổi bật nhất của tờ báo là đầu báo
 - Đầu báo tường thường có:
-> Tên tờ báo (kích thước to, màu sắc nổi bật...),
-> Tên đơn vị, số báo... và dòng chữ thể hiện nội dung tờ báo,
-> Hình minh họa, biểu trưng phù hợp với

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_to_chuc_cho_hoc_sinh_thcs_dong_linh_thanh_p.doc