SKKN Kinh nghiệm dạy một số bài khó trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dung trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt là cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục, thành tự nghiên cứu của các ngành khoa học nói chung đã dần tới những yêu cầu đổi mới trong việc dạy Tiếng Việt của nhà trường. Chương trình môn Tiếng Việt trong hệ thống các chương trình môn học mới được ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu trên. Vậy chương trình Tiếng Việt tiểu học mới nhằm mục tiêu gì? Theo Chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ.BGG&ĐT ngày 05-5-2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), mục tiêu môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học là:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học của Tiếng Việt, góp phàn rèn luyện các thao tác tư duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giảng về Tiếng Việt, về tự nhiên, về xã hội, về con người, về văn hóa văn học của Việt Nam và nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách cách người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu trên phân môn LT&C phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ, đặt câu cho các em. Nhiệm vụ này gồm có những công việc sau:
Giải nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ của học sinh những từ mới và nghĩa mới của từ đã biết làm cho các em nắm được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Dạy từ ngữ phải hình thành những kĩ năng phát hiện ra những từ mới chưa biết trong văn bản cần tiếp nhận, nắm một số thao tác giải nghĩa từ, phát hiện ra những nghĩa mới của từ đã biết, làm rõ những sắc thái nghĩa khác nhau trong những ngữ cảnh khác nhau.
Hệ thống hóa vốn từ: Dạy cho học sinh biết xếp các từ một cách có hệ thống trong trí nhớ của mình để tích lũy được từ nhanh chóng và tạo ra tính thường trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đì vào hoạt động lời nói được thuận lợi. Công việc này hình thành ở học sinh kĩ năng đối chiếu từ trong hàng dọc của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng cùng chủ đề, đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, cùng cấu tạo,. tức là kĩ năng liên tưởng để huy động vốn từ.
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dung trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt là cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục, thành tự nghiên cứu của các ngành khoa học nói chung đã dần tới những yêu cầu đổi mới trong việc dạy Tiếng Việt của nhà trường. Chương trình môn Tiếng Việt trong hệ thống các chương trình môn học mới được ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu trên. Vậy chương trình Tiếng Việt tiểu học mới nhằm mục tiêu gì? Theo Chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ.BGG&ĐT ngày 05-5-2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), mục tiêu môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học là: Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học của Tiếng Việt, góp phàn rèn luyện các thao tác tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giảng về Tiếng Việt, về tự nhiên, về xã hội, về con người, về văn hóa văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách cách người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu trên phân môn LT&C phải thực hiện những nhiệm vụ sau: Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ, đặt câu cho các em. Nhiệm vụ này gồm có những công việc sau: Giải nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ của học sinh những từ mới và nghĩa mới của từ đã biết làm cho các em nắm được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Dạy từ ngữ phải hình thành những kĩ năng phát hiện ra những từ mới chưa biết trong văn bản cần tiếp nhận, nắm một số thao tác giải nghĩa từ, phát hiện ra những nghĩa mới của từ đã biết, làm rõ những sắc thái nghĩa khác nhau trong những ngữ cảnh khác nhau. Hệ thống hóa vốn từ: Dạy cho học sinh biết xếp các từ một cách có hệ thống trong trí nhớ của mình để tích lũy được từ nhanh chóng và tạo ra tính thường trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đì vào hoạt động lời nói được thuận lợi. Công việc này hình thành ở học sinh kĩ năng đối chiếu từ trong hàng dọc của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng cùng chủ đề, đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, cùng cấu tạo,.. tức là kĩ năng liên tưởng để huy động vốn từ. Tích cực hóa vốn từ: Dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kĩ năng sử dụng từ trong lời nói và trong lời viết, đưa từ vào trong vôn từ tích cực được học sinh sử dụng thường xuyên. Tích cực hóa vốn từ tức là dạy học sinh biết sử dụng từ ngữ trong nói năng của mình. Dạy cho học sinh biết cách đặt câu, sủ dụng các kiểu câu đúng mẫu, phủ hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Trên cở sở vốn ngôn ngữ trước khi đến trường, từ những hiện tượng cụ thể của tiếng mẹ đẻ, phân môn LT&C cung cấp cho học sinh một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sở giản cần thiết đối với các em. LT&C trang bị cho học sinh hiểu biết về cấu trúc của từ, câu, quy luật hành chức của chúng. Cụ thể đó là các kiến thức về cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ, từ loại, các kiến thức về câu như: cấu tạo câu, các kiểu câu, dấu câu, các quy tắc dùng từ và đặt câu trong văn bản để sử dụng trong giao tiếp. Ngoài các nhiệm vụ trên, LT&C còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ học sinh. Hiện nay dạy và học nói chung và phân môn LT&C nói riêng đã được đặc biệt quan tâm và đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc dạy học LT&C còn bộc lộ một số hạn chế cần tập trung thao gỡ và giải quyết. Chẳng hạn như: Có những trường hợp giáo viên chưa truyền tải hết đến kiến thức cho học sinh có giáo viên còn lúng túng về kiến thức, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, chưa sử lí thoả đáng những tình huống sư phạm nảy sinh trong quá trình dạy học... Một số học sinh vốn từ còn nghèo nàn, chưa nhận diện được một số ngôn ngữ, chưa giải quyết được các bài tập và chưa vận dụng được tốt vốn ngôn ngữ và giao tiếp. Vì những lí do nêu trên, tôi chọn “Kinh nghiệm dạy một số bài khó trong phân môn LT&C lớp 5 ” làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu phương pháp và thực trạng dạy và học Tiếng Việt ở chương trình Tiếng Việt 5. - Nghiên cứu tìm ra phương pháp dạy một số bài khó trong phân môn LT&C lớp 5 nhằm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt - Phân dạng, đề xuất phương pháp dạy một số bài khó trong phân môn LT&C lớp 5. - Đưa ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 vận dụng vào thực tiễn nói và viết đúng câu, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đáp ứng nhu cầu giáo dục trong thời đại mới. 1.3 Đối tượng nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu, tổng kết về kinh nghiệm dạy một số bài khó trong phân môn LT&C lớp 5. 1.4 Phương pháp nghiên cứu: Để viết sáng kiến này, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp điều tra, khảo sát II. PHẦN NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lí luận Chương trình và sách giáo khoa. Tôi xin được đi vào phân tích những mạnh kiến thức của phân môn Luyện từ và câu lớp 5 để có cái nhìn sâu hơn, đầy đủ hơn về phân môn này . Phân môn Luyện từ và câu lớp 5 (62 tiết: 32 tiết học kì I, 30 tiết học kì II) bao gồm những nội dung chính như sau: Trong quá trình nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và qua thực hiện giảng dạy, chúng tôi nhận thấy một số bài học (bài tập) có nội dung khó như sau: * Nội dung dạy mở rộng vốn từ : - Một số yếu tố Hán chưa thông dụng với học sinh hoặc có nghĩa khó phân biệt dẫn đến học sinh chưa thực hiện được yêu cầu của bài tập. Ví dụ: + Xếp những từ có tiếng “hữu” cho dưới đây thành hai nhóm a và b hữu nghị, hữu hiện, chiến hữu, hữu tình, than hữu, hữu ích, bằng hữu, bạn hữu, hữu dụng. Hữu có nghĩa là “bạn bè” Hữu có nghĩa là “có” (Hữu nghị - Hợp tác - SGK Tiếng Việt 5 - tập 1) + Tìm trong các từ dươi đây những từ đồng nghĩa với từ công dân: đồng bào, nhân dân, dân chúng, dân tộc, dân, nông dân, công chúng. (Công dân - SGK Tiếng Việt 5 tập 2 – trang 18). - Một số thành ngữ, tục ngữ có nghĩa khó hiểu, khó diễn đạt hoặc khó tìm văn cảnh. Ví dụ: + Các thành ngữ, tục ngữ dưới đây nói lên những phẩm chất gì của người Việt nam ta? a, Chịu thương chịu khó b, Dám nghĩ, dám làm c, Muôn người như một d, Trọng nghĩa khinh tài e, Uống nước, nhớ nguồn ( Nhân dân – SGK Tiếng Việt 5 tập 1 – trang 27) + Đặt câu với một trong những thành ngữ dưới đây : a, Bốn biển một nhà b, Kề vai sát cánh c, Chung lưng đấu cật ( Hữu nghị - Hợp tác – SGK Tiếng Việt 5 tập 1 – trang 56) - Một số bài tập sáng tạo có chủ đề khó đối với học sinh. Ví dụ: Dựa vào nội dung câu nói của Bác Hồ “các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Em hãy viết một đoạn văn khoảng 5 câu về nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc của mỗi công dân. * Nghĩa của từ (11 tiết) Phần này cung cấp một số kiến thức sơ giản về các lớp từ có quan hệ về ngữ ( là từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa) và cách thức sử dụng các lớp từ này. Ở các bài kiến thức mới, ngữ liệu thường được rút ra từ các bài tập đọc mà học sinh đã học, ngữ liệu mang tính điển hình cao. Những bài học, bài tập còn khó ở nội dung này, chúng tôi xin được đề cập đến ở phần minh họa cho bài khó và cách dạy bài khó ở chương II. * Từ loại (5 tiết) Phần này cung cấp một số kiện thức sơ giản về loại có tính chất công cụ trong hoạt động giao tiếp của người Việt ( Đại từ và quan hệ từ), luyện tập sử dụng hai từ loại. Nội dung về đại từ và quan hệ từ trong sách Tiếng Việt 5 là những điều rất cơ bản, có tác dụng bồi dưỡng năng lực tư duy và giao tiếp. Thời gian cho phần luyện tập bao giờ cũng nhiều hơn thời gian cho phần cung cấp khái niệm. Ở nội dung này, học sinh thường gặp khó khăn trong việc phân biệt danh từ với danh từ làm đại từ xưng hô nên xác định đại từ chưa chính xác. * Câu ghép (8 tiết) Phần này cung cấp kiến thức sơ giản về câu ghép Các bài tập ở phần câu ghép nhìn chung vừa sức đối với học sinh. Hầu hết học sinh đều nhận diện được câu ghép, xác định được các phương tiện nối các vế câu ghép (dấu câu, quan hệ từ) thực hành tương đối tốt các dạng bài tập trong sách giáo khoa. Ở nội dung này học sinh đang còn lúng túng khi sử dụng các cặp quan hệ từ biểu thị nguyên nhân – kết quả , điều kiện – kết quả , giả thiết – kết quả , quan hệ tăng tiến Đó là không biết khi nào nên dùng vì nên.. , khi nào nên dùng nhờ mà hay tại nên ..; khi nào nên dùng ... thì , hễ thì hay giá thì ; khi nào nên dùng không những mà hay không chỉ mà cho phù hợp. Ví dụ : Chọn quan hệ từ trong ngoặc đơn thích hợp với mỗi chỗ trống. Giải thích vì sao em chọn quan hệ từ ấy. ( tại, nhờ ) a, thời tiết thuận lợi nên lúa tốt. b, thời tiết không thuận nên lúa xấu. ( SGK Tiếng Việt 5 tập 2 – trang 33). Ngoài ra, ở phần này học sinh còn gặp một bài tập khó. Đó là bài tập có ngữ liệu không điền hình( nhất là trong chương trình mới, học sinh không được học câu rút gọn) nên có giáo viên lúng túng khi hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề. Ví dụ: Tìm vế câu chỉ điều kiện (giả thiết), vế câu chỉ kết quả và các quan hệ từ nối chúng trong những ví dụ sau: b, Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hoa hướng dương Trương Quốc Khánh ( SGK Tiếng Việt 5 tập 2 – trang 39 ) * Ngữ pháp văn bản ( 4 tiết ) Phần này cung cấp một số kiến thức sơ giản về các phương tiện liên kết câu cơ bản: Liên kết câu là một nội dung rất mới trong chương trình phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học. Mặc dù kĩ năng liên kết câu đã được rèn từ trước trong các bài tập viết đoạn văn, bài văn nhưng việc liên kết câu diễn ra một cách tự nhiên, chưa thức sự có ý thức. Các bài tập ở nội dung này chủ yếu tập trung vào việc nhận diện các phương tiện liên kết và vận dụng để điền từ, thay thế từ ngữ, sửa từ dùng sai. Nhìn chung học sinh thực hiện được yêu cầu các bài tập. Tuy nhiên các em còn gặp khó khăn trong bài tập Liên kết câu bằng cách thay thế từ ngữ: Đó là học sinh không tìm được từ ngữ để thay thế cho phù hợp. Ngoài ra, ở nội dung này có ít bài tập sáng tạo nên học sinh không có điều kiện vân dụng các kiến thức về liên kết câu cho việc viết đoạn văn ngắn cho các chủ đề quen thuộc. Để rèn luyện kĩ năng liên kết câu. * Ôn tập ( 15 tiết ) Là lớp cuối cấp bậc Tiểu học, phân môn LT&C có phần ôn tập, hệ thống hóa tất cả các nội dung về từ và câu mà học sinh được học ở cấp Tiểu học. Cụ thể : Đây là cơ hội để học sinh hệ thống hóa, khái quát hóa tất cả những kiến thức về từ và câu đã học. Ở nội dung này nhìn chung kiến thức hợp lý, vừa sức với học sinh, chỉ còn một số bài tập khó như bài tập về đại từ và bài tập có ngữ liệu dài. Ví dụ: + Tìm đại từ xưng hô trong đoạn văn ở bài tập 1. ( SGK Tiếng Việt 5 tập 2 trang 137) Ở bài tập này học sing thường nhầm lẫn giữa danh từ và đại từ xưng hô. + Đọc bài văn sau: Chữ nghĩa trong văn miêu tả. Trong miêu tả, người ta thường hay so sánh. So sánh thì vô cùng Rồi sau đó mới đến cái mới, cái riêng trong tình cảm trong tư tưởng. Theo Phạm Hổ ( SGK Tiếng Việt 5 tập 1 – trang 159 ) Bài văn trên là một bài văn rất hay về nghệ thuật miêu tả, về vẻ đẹp đầy sống động, rất riêng rất mới của sự vật qua những hình ảnh so sánh, nhân hóa và cách sang tạo ra những hình ảnh đó. Nhưng do thời gian cho một tiết học có hạn và ngữ liệu của bài quá dài nên không đủ thời gian giúp học sinh hiểu đầy đủ ý nghĩa của bài viết. Trên đây, tôi đã hệ thống toàn bộ chương trình sách giáo khoa phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Với việc phân tích những ưu điểm cơ bản và một số hạn chế nhất định của chương trình.Tôi thấy một việc hết sức cần thiết là làm thế nào để học sinh lớp 5 hiểu và nắm vững được các bài tập khó trong phân môn luyện từ và câu, vận dụng tốt các kiến thức của bài tập này trong học tập và trong cuộc sống. Tôi mong muốn sẽ được cùng các đồng nghiệp đề ra những giải pháp hay để tháo gỡ, giải quyết những khó khăn khi dạy Luyện từ và câu lớp 5, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 2.2 Thực trạng dạy học Luyện từ và câu. 2.2.1 Hoạt động dạy học của Giáo viên. Tôi tiến hành khảo sát tình hình đội ngũ, giờ dạy của giáo viên để nghiên cứu những ưu, nhược điểm của họ trong qua trình dạy học Tiếng Việt nói chúng và phân môn LT&C nói riêng đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của ưu, nhược điểm đó. - Tình hình đội ngũ: Đội ngũ cán bộ giáo viên nhìn chung có trình độ ĐHSP, đã nắm được kiến thức cơ bản, có nghiệp vụ sư phạm cần thiết, một số được đào tạo bài bản, chịu khó đổi mới phương pháp, yêu nghề mến trẻ. Đây là điều kiện tốt để nâng cao chất lượng dạy học. + Công tác chuẩn bị trước khi lên lớp: + Tất cả các giáo viên lên lớp đều có bài soạn, thiết kế được các hoạt động dạy học của thầy và trò. + Tuy nhiên, một số giáo viên vẫn còn lệ thuộc vào sách giáo viên, sách thiết kế, bài soạn ít sáng tạo, chưa chú ý đến việc thiết kế, xây dựng hệ thống bài tập cho phù hợp với trình độ từng đối tượng học sinh. Đồ dùng dạy học nhất là băng giấy, bảng phụ chưa được sử dụng thường xuyên mà chỉ sử dụng khi khai thao giảng. Chưa dự kiến được các tình huống sư phạm nảy sinh trong quá trình dạy học. - Công tác dạy học trên lớp: Qua nhiều năm dạy học, tôi đã dự giờ, khảo sát giáo viên trong việc dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn LT&C nói riêng . Những ưu, khuyết điểm chính của giáo viên bộc lộ trong quá trình dạy học được chúng tôi tổng kết như sau: Ưu điểm: + Dạy đủ, dạy đúng kiến thức, đúng đặc trưng loại bài, tiến trình hợp lí. + Tổ chức được các hoạt động học tập cho học sinh tích cực hoạt động để tìm ra kiến thức. + Hình thức tổ chức dạy học phù hợp, phương pháp dạy học linh hoạt. Nhược điểm: Trong một số giờ dạy học, một số giáo viên còn: + Chưa thực sự chủ động trong toàn bộ tiến trình bài học, chưa làm chủ kiến thức, còn lung túng trong việc giải quyết các tình huống sư phạm. + Máy móc thực hiện các hoạt động như sách giáo viên, sách thiết kế đưa ra, chưa tác động được đến tất cả các đối tượng học sinh + Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. + Tổ chức các hình thức dạy học cho có chứ chưa hay, chưa đổi mới phương pháp, hình thức dạy học. 2.2.2 Khó khăn từ phía học sinh: + Học sinh chưa thực sự có hứng thú học phân môn Luyện từ và câu. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”. - Ở phần lí thuyết thì các em trả lời tương đối trôi chảy nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng, chưa vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập một cách linh hoạt nhất là đối với các bài tập khó, soos học sinh hoàn thành được các dạng bài tập này chiếm tỉ lệ nhỏ trong lớp. + Vốn từ về Tiếng Việt ở các em còn hạn chế đặc biệt khi hoc các bài về nghĩa của từ, mở rộng vốn từ. Đây là bảng khảo sát kết quả học luyện từ và câu của học sinh đầu năm : Số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 32 em Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 1em 3.1 % 21 em 65,9% 10 em 31% 2.3 Dạy một số bài khó, trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5: Các bài tập khó trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 cũng không phải là nhiều nhưng làm thế nào để giáp học sinh tiếp thu, hiểu và nắm bắt được kiến thức của các bài tập này một cách tốt nhất thì không phải là điều dễ. Từ thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 5 nhiều năm, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm dạy một số bài khó. Sau đây, tôi chọn 5 bài để minh họa cho những kinh nghiệm của mình về cách dạy bài khó trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Bài 1: Từ đồng âm (tuần 5 ) * Đây là dạng bài dạy lí thuyết. Nội dung bài gồm 3 phần Nhận xét, ghi nhớ và luyện tập. Phân môn Luyện tập có 4 bài tập. Mục đích của bài tập là giúp học sinh nhận diện được một số từ đồng âm trong giao tiếp, biết phân biệt nghĩa một số từ đồng âm. Bài tập 1: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: a, Cách đồng âm – tương đồng – một nghìn đồng b, Hòn đá – đá bóng c, Ba và má – ba tuổi Bài tập 2 : Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm bàn, cờ, nước . Bài tập 3 : Đọc mẩu chuyện vui “Tiền tiêu” và cho biết vì sao Nam tưởng ba mình đã chuyển sang làm việc tại ngân hàng. Bài tập 4: Đố vui: a, Trùng trục như con chó thui Chín mắt, chin mũi, chín đuôi, chín đầu. (Là con gì ?) b, Hai cây mặt hồ . (Là cây gì ?) * Khó khăn và cách tháo gỡ . Ở các bài tập trên, theo chúng tôi có những nội dung khó như sau: Ở bài tập 2 , học sinh phải đặt câu để phân biệt nghĩa các từ đồng âm trong khi có nhiều học sinh không tìm được các từ đồng âm. Như vậy, trong sách giáo khoa, giúp giáo viên gợi ý giúp học sinh tìm ra các từ đồng âm như: . bàn: bàn (ghế) / bàn (bạc) / bàn thắng . cờ: (lá) cờ / (quân) cờ. . nước: (uống) / nước (cờ) / đất nước. Từ việc xác đinh các từ đồng âm, học sinh sẽ đặt được câu để phân biệt từ đồng âm đó một cách thuận tiện hơn. Ở bài tập 3: Học sinh không hiểu nghĩa từ (tiền tiêu) (vị trí quan trọng, nơi bố đứng canh gác trong khu vực trú quân hướng về phía địch) dẫn đến không hiểu được cái hay, cái buồn cười thú vị trong sự hiểu nhầm rất hồn nhiên của Nam . Cách tháo gỡ: Vì Nam hiểu nhầm ba chuyển sang làm ở ngân hàng nên giáo viên gợi ý giúp học sinh thấy rõ vì sao lại có sự hiểu nhầm đó bằng cách: tìm từ có liên quan đến ngân hàng: tiền. Giúp học sinh hiểu nghĩa từ (tiền tiêu) bằng cách đưa ra tình huống cụ thể . Chẳng hạn: Mẹ giữ tiền tiêu cho gia đình Bố giữ tiền tiêu cho Tổ Quốc. Học sinh so sánh, đối chiếu để phát hiện ở câu này, nghĩa hai từ “ tiền tiêu ” không giống nhau. Khi đó, học sinh sẽ hiểu được cái hay, thú vị ở tình huống mà bạn Nam đã hiểu nhầm, đồng thời từng bước hiểu được giá trị của cách nói đồng âm. Ở bài tập 4: Ở bài này, học sinh hiểu chín là số chín (số liền sau số 8 ) nên hiểu nhầm có một con vật có 9 mắt, 9 mũi , 9 đuôi , 9 đầu. Với cách hiểu đó, học sinh không giải được câu đó. Trong trường hợp này, giáo viên cần gợi ý giúp học sinh tìm từ đồng âm với từ chín hiểu theo nghĩa trên. Như vậy, chín cũng có thể được hiểu là thức ăn được nấu nướng kĩ đến độ ăn được ( trái nghĩa với sống ) . Nghĩa này ứng với nội dung của câu đố “ chín ” là nướng chín . Đó là “con chó thui”. Bài 2 : Từ nhiều nghĩa – tuần 7 ( SGK Tiếng Việt 5 tập 1 – trang 66 ) * Dạng bài lí thuyết . Phần luyện tập có 2 bài tập. Mục đích của bài tập là : Giúp học sinh phân biệt được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong một số câu văn, tìm được ví dụ về sự chuyển nghĩa của một số danh từ chỉ bộ phận cơ thể người . Bài tâp 1 : Trong những câu nào, các từ mắt, chân, đầu mang nghĩa gốc và trong những câu nào chúng mang nghĩa chuyển a, Mắt : - Đôi mắt của bé mở to. - Quả na mở mắt. b, Chân : - Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. - Bé đau chân. c, Đầu :- Khi viết, em đừng ngoẹo đầu. - Nước suối đầu nguồn rất trong. * Khó khăn và cách tháo gỡ . Ở bài tập này, một số học sinh tiếp thu chậm không thực hiện được yêu cầu. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu: Nghĩa gốc là nghĩa ban đầu của từ. Vì vậy, khi từ đứng một mình, ta vẫn nhận ra nghĩa gốc, còn nghĩa chuyển, ta chỉ nhận ra khi kết hợp với các từ từ ngữ khác. Với cách hiểu như trên, học sinh chỉ cần tách từ ra khỏi văn cảnh để xem nghĩa của từ khi đó có giống nghĩa từ trong văn bản hay không. Nếu giống thì từ đó được dùng với nghĩa đen, nếu không giống, từ đó được dùng với nghĩa chuyển. Đối với những học sinh có khả năng tiếp thu nhanh, giáo viên có thể giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ và chỉ ra nhiều nghĩa chuyển của nó. Chẳng hạn : - Từ mắt. + Nghĩa gốc: Bộ phận trên mặt người, loài vật, dùng để nhìn. + Nghĩa chuyển: mắt na, mắt mía, mắt cá chân, mắt lưới, mắt bão, - Từ chân: + Nghĩa gốc: Bộ phận dưới cùng của người, loài vật, dùng đỡ bộ phận trên và giúp người, loài vật di chuyển. + Nghĩa chuyển: chân kiềng, chân bàn, chân núi, chân mây, Bài 1 giáo viên có thể tổ chức cho học
Tài liệu đính kèm:
- skkn_kinh_nghiem_day_mot_so_bai_kho_trong_phan_mon_luyen_tu.doc