SKKN Khơi dậy hứng thú trong giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 trường THPT Như Thanh II qua hoạt động khởi động bài học nhập cảm

SKKN Khơi dậy hứng thú trong giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 trường THPT Như Thanh II qua hoạt động khởi động bài học nhập cảm

Khi quyết định nộp hồ sơ vào Đại học sư phạm với chuyên nghành Ngữ văn, cô giáo chủ nhiệm dạy môn văn của tôi đã chia sẻ : “ Đậu vào đại học sư phạm đã khó, song để trở thành một giáo viên dạy văn đích thực không phải chuyện dễ dàng đâu”. Qủa thực, ai trong số chúng ta, nếu đã lựa chon đều có thể “ dạy văn” song để trở thành giáo viên dạy văn “ đích thực” như lời cô đã nói không đơn giản chút nào. Có lẽ, bới đó không chỉ là một bộ môn mang tính “ khoa học” mà còn mang tính “ nghệ thuật ” nên giáo viên không dễ thành công khị “chạm” được đến “ ngưỡng” của vấn đề. Đến với tác phẩm văn chương, không chỉ để tìm hiểu thêm về các tri thức liên quan đến xã hội, con người, đến giá trị nhận thức của tác phẩm văn chương mà còn là để lắng nghe, thấu hiểu và đồng điệu, để gặp gỡ chính tâm hồn mình để rung động thẩm mĩ và thanh lọc tâm hồn biết hướng tới chân- thiện- mĩ Văn chương vừa có tính thực tế lại cũng vừa là chuyện “ trời mây non nước” , có lẽ vì thế đôi lúc nó trở nên “chàng màng” ,“khó hiểu”, “khó tiếp nhận” (như những lời tâm sự rất chân thành của học sinh).

docx 24 trang thuychi01 7432
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Khơi dậy hứng thú trong giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 trường THPT Như Thanh II qua hoạt động khởi động bài học nhập cảm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT NHƯ THANH 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
KHƠI DẬY HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT NHƯ THANH II QUA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG BÀI HỌC NHẬP CẢM
 	Người thực hiện: Lê Thị Thùy
 	Chức vụ: Giáo viên
 	SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2018
THANH HOÁ NĂM 2018
 Mục lục
STT
 NỘI DUNG
TRANG
1
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài 
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2
 2. NỘI DUNG CHÍNH
2
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2
2.1.1 Phần “ Khởi động” trong lí luận dạy học
2
2.1.2 Hứng thú – Những tác động của hứng thú
3
2.1.3 Từ góc độ của lí thuyết tiếp nhận và tâm thế trong giờ học ngữ văn
4
2.2 Cơ sở thực tiễn
5
2.2.1 Đối với bộ môn nói chung
5
2.2.2 Đối với thực tiễn ở đơn vị giáo dục
6
2.3 Những “ Hoạt động khởi động nhập cảm” để khơi dậy hứng thú trong giờ học ngữ văn
7
2.3.1 Hoạt động dò bài cũ mang tính định hướng, giới thiệu bài học mới
7
2.3.1.1 Ưu điểm
7
2.3.1.2 Tiến trình cụ thể qua ví dụ minh họa
7
2.3.1.3 Phân tích dẫn chứng và hiệu quả đem lại
9
2.3.2 Hình thức “ Viết mở bài” - kết hợp lời bình của giáo viên
9
2.3.2.1 Ưu điểm
9
2.3.2.2 Chuẩn bị
9
2.3.2.3 Một số ví dụ minh họa
10
2.3.3 Sử dụng yếu tố thực tế như một công cụ đắc lực và linh hoạt
12
2.3.3.1 Ưu điểm
12
2.3.3. 2 Những “ kênh” để sử dụng thông tin thực tế
12
2.3.4 Kĩ thuật “ Động não”, “ Nêu vấn đề” để học sinh hứng thú và có nhu cầu tự chiếm lĩnh
14
2.3.4.1 Mặt lí luận
14
2.3.4.2 Hoạt động cụ thể
14
2.3.5 Hoạt động ‘‘Sân khấu hóa’’
17
2.3.5.1 Ưu điểm và hạn chế
17
2.3.5.2 Công đoạn chuẩn bị
17
2.3.5.3 Từ ‘‘Nhập thân’’ đến bài học
18
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
19
 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Những kiến nghị
 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy học giảng văn ở trường ptth - Nguyễn Đức Ân – nxb Đồng Tháp 1997
2. Giáo trình Phương pháp dạy học Ngữ văn- Trương Dĩnh – NXB Thuận Hóa 2000
3. Chia sẻ tâm hồn và quà tặng cuộc sống – Jack Canfield và Mark Victo hasen, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005
4.Bài viết “ Thiết kế giờ dạy theo định hướng đổi mới phương pháp giáo dục” - 
Tiến Sĩ Nguyễn Thúy Hồng. Báo GDTĐ 2016
5.Bài viết “ Từ lý thuyết tiếp nhận đến giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường THPT” – Lê Thị Phú- tạp chí NCGD TPHCM - 2015
 DANH MỤCSÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI. 
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá xếp loại
Kết quả xếp loại
Năm học 
1
“ Con đường hình thành ý thức xây dựng tập thể đoàn kết, tiến bộ cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT Như Thanh II”
Sở giáo dục
B
2013-2014
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Khi quyết định nộp hồ sơ vào Đại học sư phạm với chuyên nghành Ngữ văn, cô giáo chủ nhiệm dạy môn văn của tôi đã chia sẻ : “ Đậu vào đại học sư phạm đã khó, song để trở thành một giáo viên dạy văn đích thực không phải chuyện dễ dàng đâu”. Qủa thực, ai trong số chúng ta, nếu đã lựa chon đều có thể “ dạy văn” song để trở thành giáo viên dạy văn “ đích thực” như lời cô đã nói không đơn giản chút nào. Có lẽ, bới đó không chỉ là một bộ môn mang tính “ khoa học” mà còn mang tính “ nghệ thuật ” nên giáo viên không dễ thành công khị “chạm” được đến “ ngưỡng” của vấn đề. Đến với tác phẩm văn chương, không chỉ để tìm hiểu thêm về các tri thức liên quan đến xã hội, con người, đến giá trị nhận thức của tác phẩm văn chương mà còn là để lắng nghe, thấu hiểu và đồng điệu, để gặp gỡ chính tâm hồn mình để rung động thẩm mĩ và thanh lọc tâm hồn biết hướng tới chân- thiện- mĩ Văn chương vừa có tính thực tế lại cũng vừa là chuyện “ trời mây non nước” , có lẽ vì thế đôi lúc nó trở nên “chàng màng” ,“khó hiểu”, “khó tiếp nhận”  (như những lời tâm sự rất chân thành của học sinh).
Trong xu thế hiện tại, khi học sinh (HS) ngày càng không còn hứng thú học văn , thậm chí giờ học ngữ văn trở nên nhàm chán, gây buồn ngủ và thành “ nỗi sợ” với học sinh thì việc tìm cách để đem lại niềm đam mê đối với môn học là nỗi trăn trở của mỗi giáo viên (GV) văn tâm huyết, và cũng là nỗi niềm trăn trở của riêng tôi. Nỗ lực trong từng bài giảng, từng bước đi của bài học, ở mỗi thao tác nhỏ và trong mỗi lời giảng là điều mà tôi luôn tự nhủ với mình. 
Tháng 5, khi sân trường ngập nắng, và ve đã râm ran, khi những bài kiểm tra học kì đã kết thúc và không khí học đã trở nên rệu rã ở hầu hết các lớp học thì lũ “ chuột bạch” của tôi vẫn còn hăng say trong những bài giảng cuối năm. Có lẽ đó cũng là cơ sở để một lần nữa tôi khẳng định rằng: chìa khóa để mở ra cánh cửa văn chương là thế giới của tâm hồn và cảm xúc, mà để có được nó ta phải “ xây nền đặt móng” từ ban đầu. Phải tạo cho học sinh tâm thế tốt nhất, phải khơi dậy được niềm hứng thú, đam mê mới nhen được ngọn lửa cảm xúc trong giờ văn . Đó cũng là lí do mà tôi lựa chọn vấn đề trao đổi cùng đồng nghiệp qua sáng kiến kinh nghiệm được mang tên “ KHƠI DẬY HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP 11 Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH II QUA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG BÀI HỌC NHẬP CẢM” .
 1.2 Mục đích nghiên cứu
 Đề tài nghiên cứu là quá trình tổng hợp, đúc rút lại những phương pháp mà
 bản thân người viết đã sử dụng và nhận thấy có hiệu quả thực tế trong tiến trình dạy học.
Là sự giải bày một phần nhỏ những phương pháp của bản thân trên tinh thần cầu thị mong nhận được sự góp ý và trao đổi của đồng nghiệp để bản thân hoàn thiện hơn trong từng bài giảng.
Bản thân còn mong muốn góp một phần nhỏ tiếng nói của mình để giải quyết bài toán khó mà những “đồng môn” còn trăn trở : Tìm lại niềm cảm hứng cho học sinh trong mỗi giờ học ngữ văn.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Những giờ dạy học ngữ văn lớp 11 và đặc biệt là ở những tiết giảng văn (Những bài học liên quan nhiều đến cảm xúc).
Phạm vi: sáng kiến kinh nghiệm của tôi chỉ dừng lại ở một phần rất nhỏ trong toàn bộ tiến trình của giờ học: Phần “khởi động” giờ học. 
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thu thập, nghiên cứu những lí luận bàn về các vấn đề liên quan đến lý thuyết dạy học phần “ nhập cảm” 
- Phương pháp quan sát thực tế: Quan sát thực tể những biểu hiện của HS trong quá trình học tập, từ đó có thể đánh giá được thái độ và hứng thú học tập của HS.
- Phương pháp điều tra, đối sánh
 	2. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. 1.1 Phần “ Khởi động” trong lí luận dạy học
- Tiến sĩ Nguyễn Thúy Hồng (viện CL và CTGD) trong bài viết “ Thiết kế giờ dạy theo định hướng đổi mới phương pháp giáo dục” đã đề xuất các bước chuẩn cơ bản của một tiết dạy như sau: 
Bước 1: Kiểm tra sự chuẩn bị của HS
Bước 2: Tổ chức dạy học bài mới 
GV giới thiệu bài mới : 
Tổ chức, hướng dẫn HS suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội dung bài học 
Bước 3: Luyện tập, củng cố
 Bước 4: Đánh giá
 Bước 5: hướng dẫn HS học bài, làm việc ở nhà
Như vậy, ở tất cả các môn học lý thuyết về dạy học luôn đặt bước giới thiệu bài học là một phần “cứng” trong tiến trình dạy học. 
Đối với môn Ngữ văn đó là một bước không thể nào thiếu được tuy nhiên như đã nói đó là một môn học không chỉ là “khoa học” mà còn mang tính “nghệ thuật” đậm nét, vì vậy mỗi giáo viên dạy văn đôi khi cũng trở thành những người “nghệ sĩ” không chỉ là người định hướng, dẫn đường mà còn là sự hóa thân vào tác giả, vào nhân vật, vào dư luận không chỉ là ở khâu giảng dạy mà còn là ở tiến trình lên lớp luôn phải biến hóa linh hoạt phù hợp với từng bài giảng, từng “ngữ cảnh” cụ thể  sao cho hài hòa nhất, tạo tâm thế tiếp nhận tốt nhất cho bài học.
Lí thuyết về phương pháp giảng dạy môn ngữ văn đề cao vai trò của phần “khởi động” với tư cách là sự “dẫn nhập” mang tính cảm xúc và đồng thời là sự định hướng cho học sinh về mặt kiến thức, tình cảm và còn là quá trình hoàn thiện về nhân cách. GS Trương Dĩnh ,Thạc sĩ Lê Khánh Tùng - những nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học môn ngữ văn đều khẳng định “ Không thể có giờ dạy học ngữ văn hiệu quả nếu thiếu đi phần khới động ấn tượng”.
2.1.2 Hứng thú – Những tác động của hứng thú 
* Hứng thú trong cuộc sống
 Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực, duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người. Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo.
 * Hứng thú trong dạy học
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những  yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì: “ Người thầy trung bình chỉ biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng biết minh họa, Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh,  người học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. 
 Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộcĐặc biệt hơn, hứng thú là cơ sở để khơi nguồn của cảm xúc , giờ học văn lại là giờ giao lưu về mặt tâm hồn, cảm xúc, là thế giới của tâm tư tình cảm. Người học không thể tiếp nhận tích cực khi không có cảm xúc và hứng thú. Lại càng không thể học tập hiệu quả nếu không thể có cảm hứng với giờ văn.
2.1.3 Từ góc độ của lí thuyết tiếp nhận và tâm thế trong giờ học ngữ văn
 Lý thuyết tiếp nhận văn học cho rằng tâm lí có vai trò cực kì quan trọng trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học. Mỗi tâm trạng trong mỗi hoàn cảnh đều có tác động khác nhau đến việc hình thành kiến thức và sự hiểu hiểu biết về tác phẩm văn học. Để có thể tiếp cận văn học tốt nhất thì phải chuẩn bị tâm lí tiếp nhận tốt nhất, khi đó mỗi chủ thể tiếp nhận mới có thể trở thành một bạn đọc “ đồng sáng tạo”.
Tâm thế tiếp nhận của chủ thể HS được GS Trương Dĩnh khái quát thành 3 dạng chủ yếu như sau: 
+ Hân hoan chờ đón, sẵn sàng nhập cuộc: Đây là trạng thái tiếp nhận lí tưởng nhất, là niềm mong ước của mỗi giáo viên nói chung và gv dạy ngữ văn nói riêng. Có được tâm thế này cả giáo viên và Hs sẽ có được tiền đề cho một giờ học đầy hứng khởi, say mê và hiệu quả.
+ Trạng thái tĩnh tại: HS trong tâm trạng bình thường, nói như cách nói của dân gian là “ bặt chăng hay chớ” . Với tâm lí này, để nhen lên ngọn lửa say mê của HS là điều vô cùng khó khăn với giáo viên. HS học bài thụ động và đôi lúc sẽ khiến ngay cả GV cũng rơi vào trạng thái nhàm chán.
+ Thụ động, chán nản: Đây là tình trạng phổ biến của Hs bây giờ đối với môn ngữ văn. Cảm giác buồn ngủ, thậm chí ngủ gật trong giờ học, sự mệt mỏi buông xuôi thấy rất rõ Chứng kiến điều này, ngay cả với những GV tâm huyết cũng nản chí và đôi lúc chỉ muốn dạy cho chóng hết giờ. Đây chính là “ thảm họa” với cả GV và Hs
2.2 Cơ sở thực tiễn đề tài
2.2.1 Đối với bộ môn nói chung
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập bởi sự đổi mới diễn ra thường xuyên và liên tục về chương trình, thi cử, phương pháp
Hứng thú học môn ngữ văn của HS vẫn là chuyện “ Biết rồi, khổ lắm” bởi xu thế hiện nay HS chỉ học bộ môn để đối phó, hoặc để thi cử rất ít tìm được HS học môn ngữ văn bằng niềm đam mê. Ở hầu hết các nhà trường, ngữ văn vẫn là môn bị HS kêu ca, là môn học “ buồn ngủ ”, đem lại cảm giác “sợ” cho đa số HS.
Nhiều GV còn xem nhẹ bước “khởi động bài học”, còn “Ngại”, cho rằng “rườm rà” còn chưa nói đến việc chú ý đến lĩnh vực “ chuẩn bị tâm thế tiếp nhận” và “ nhập cảm” 
2.2.2 Đối với thực tiễn ở đơn vị giáo dục
* Khó khăn 
 	Trường THPT Như Thanhh II là ngôi trường đóng ở vùng cao địa bàn tuyển sinh chủ yếu là con em dân tộc (Xuân Thái, Thanh Tân, Thanh Kỳ, Yên Lạc.... ) Về kinh tế, người dân còn gặp nhiều khó khăn. Thành phần dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc gây ra những trở ngại nhất định về giao tiếp, về ngôn ngữ...Những đầu tư, khuyến khích về mặt học hành cho con cái chỉ tính được trên đầu ngón tay trên mỗi lớp học, vì vậy HS cũng không có điều kiện được tham khảo tài liệu, hay được hỗ trợ, tiếp xúc các phương tiện đọc, học, nghe nhìn trực quan... để nâng cao hứng thú. 
 Một vài HS có điểm đầu vào trội hơn so với mặt bằng không chọn môn văn làm môn thi khối theo xu thế thi cử hiện nay... điều này ảnh hưởng tâm lí đám đông về xu thế học bộ môn với tập thể, ảnh hưởng ngay cả đến hứng thú dạy học của GV. 
* Thuận lợi
Đa số HS ở đây đều được xác định là “ lành” biết nghe lời thầy cô và nếu được khơi dậy sẽ có thể nhen nhóm lên ngọn lửa. Các em không được tiếp cận nhiều với những phương tiện thông tin,vì vậy mỗi bài học mới lạ, mỗi câu chuyện thú vị... nếu biết khơi gợi ,dẫn dắt... có thể tạo nên sự cuốn hút đối với các em. Đặc biệt, với số đông HS là người dân tộc thiểu số, với tình cảm yêu – ghét rạch ròi... HS thường có những tình cảm, cảm xúc rất mãnh liệt, là những tâm hồn mềm mại, dễ rung động trước cuộc sống... cũng là một điều kiện thuận lợi để khơi dậy niềm hứng thú với một bộ môn mang tính cảm xúc, tâm hồn.
Nếu như đại đa số HS ở các trường khác trên toàn tỉnh đều tập trung vào các khối “hot” như : A,B,D.... thì HS ở đây, do đầu vào quá thấp, chất lượng quá yếu... nên các em lựa chọn môn văn thi khối như một lựa chọn không thể khác. Với sự xác định ấy, gv bộ môn ở đây có thể định hướng ngay từ đầu khuyến khích HS bằng tâm lí, kết hợp với một số bài giảng trên lớp... để thuyết phục các em.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển chuyên môn của nhà trường.
2. 3 NHỮNG “ HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG NHẬP CẢM” ĐỂ KHƠI DẬY HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN
Hoạt động dò bài cũ mang tính định hướng, giới thiệu bài học mới
Thực ra nếu dẫn dắt bài học bằng cách này có lẽ nhiều đồng nghiệp cũng từng làm, thậm chí là phổ biến. Tuy nhiên, để tạo thành một hệ thống logic, chỉnh thể đồng thời vừa kết hợp kiểm tra kiến thức cũ, vừa giới thiệu bài mới một cách ấn tượng trong mối liên quan và tạo được hứng thú thì tôi nghĩ không phải là đơn giản. Kỹ thuật vào bài này cần có sự đầu tư, sáng tạo một cách nghiêm túc và tâm huyết của GV. Dưới đây là một số trải nghiệm của bản thân tôi.
 Ưu điểm 
Đối với cách dẫn nhập này, ta không cần tốn thời gian để chia cắt làm 2 bước (kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới như thông thường), là cách làm “hai trong một” mà vẫn khá ấn tượng
Hệ thống kiến thức trong cái nhìn tổng thể, đối chiếu, so sánh, tương liên... tri thức sẽ vững vàng và sâu sắc hơn.
Lưu ý:
Việc kiểm tra bài cũ kết hợp giới thiệu bài mới mà có thể tạo ta “ hứng thú” và “tâm thế” thì dĩ nhiên GV không thể tùy hứng được, mà đương nhiên phải có “kịch bản” rõ ràng cho tiến trình, bước đi, thậm chí từng câu hỏi gợi mở cụ thể để hướng đến bài học mới một cách ấn tượng.
 Tiến trình cụ thể qua ví dụ minh họa
* Câu hỏi và đáp án chuẩn bị
- Câu hỏi: 
 Câu hỏi 1: Hãy khái quát lại những đặc trưng cơ bản nhất của chủ nghĩa lãng mạn? Những đặc trưng ấy được thể hiện như thế nào trong tác phẩm của Thạch Lam?
Đáp án chuẩn bị:
+ Về nội dung: Nếu văn học hiện thực viết về cuộc sống “như nó vốn có” thì văn học lãng mạn lại viết về cuộc sống “như nó ước mơ”
+ Về nghệ thuật: tập trung xây dựng hình ảnh những con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường ; Sử dụng nghệ thật đối lập như một nguyên tắc cơ bản (có phân tích ngắn gọn kèm theo: Đối lập ánh sáng và bóng tối, Hà Nội và Phố huyện)
 Câu hỏi 2: Đặc điểm nào của văn học lãng mạn chưa thể hiện rõ nét trong tác phẩm của Thạch Lam? Giải thích?
Đáp án chuẩn bị: 
+ Nội dung: có thể hiện được ước mơ, hướng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông kêu gọi, thúc dục con người hãy biết ước mơ, hãy biết khát khao song nhìn chung cuộc sống ấy vẫn tàn lụi, đượm buồn.
+ Nghệ thuật: Đã sử dụng thành công nghệ thuật đối lập như một nguyên tắc cơ bản, song thế giới nhân vật trong tác phẩm của Thạch Lam là thế giới nhân vật bé nhỏ, đáng thương nhuốm sắc màu hiện thực chưa mang rõ nét “ Con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường” 
* Dẫn nhập tạo tâm thế và cảm xúc
Bước 1: Nhận xét phần trả lời của HS
Bước 2: Lồng ghép để dẫn dắt: Cũng là một nhà văn lãng mạn, cũng là nhà văn tiêu biểu của “ Tự lực văn đoàn” song nếu Thạch Lam chọn thế giới của những con người yếu đuối, bé nhỏ và tội nghiệp man mác sắc màu hiện thực thì Nguyễn Tuân đã “ xây dựng được những con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường” . Nếu Thạch Lam lại là nhà văn “duy cảm” với những dòng cảm xúc lấp lánh về số phận và sự bé nhỏ của con người và niềm hi vọng rất mong manh, thì Nguyễn Tuân lại là nhà văn “ duy mĩ” tôn thờ thế giới của cái đẹp và thể hiện niềm tin mãnh liệt rằng cái đẹp luôn chiến thắng như ông đã ước mơ.... Có thể nói, tác phẩm của Nguyễn Tuân là một đại diện đầy đủ cho chủ nghĩa lãng mạn. Vậy những con người ấy là ai? Họ đã phi thường như thế nào? Nguyễn Tuân đã gửi gắm những mơ ước gì trong tác phẩm? Và cái đẹp trong tác phẩm của ông được khai thác ở phương diện nào... Câu hỏi ấy sẽ được giải đáp trong bài học ngày hôm nay với tác phẩm tiêu biểu của ông trước cách mạng tháng Tám:“ Chữ người tử tù”.
 Phân tích dẫn chứng và hiệu quả đem lại 
Định hướng nội dung tác phẩm: thế giới của cái đẹp, tư tưởng của tác phẩm, đặc trưng của văn học lãng mạn.
Tâm thế tiếp nhận: Hs sẽ tò mò, háo hức với những vấn đề được đặt ra: những con người phi thường ấy là ai? Hoàn cảnh phi thường như thế nào? Tại sao Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn duy mĩ?
Cảm xúc của HS: sự chờ đợi khai thác nội dung bài học, hơn nữa, ngay từ đầu với cách giới thiệu ở trên HS sẽ có thể hình dung ra được “ không khí” của tác phẩm và chuẩn bị tâm thế “ nhập cuộc”
Với sự khơi gợi như vậy, cộng với sự linh hoạt của GV trong những bước tiếp theo của bài học tôi tin rằng chúng ta sẽ có một giò học như mong đợi.
2. 3.2. Hình thức “ Viết mở bài” – kết hợp lời bình của GV
2.3.2.1: Ưu điểm:
Đây là cách giới thiệu khá linh hoạt và thoải mái, dễ ấn tượng, không gò bó. Giới thiệu bài học tách rời kiểm tra bài cũ ,ta hoàn toàn chọn cách dẫn dắt trọng tâm nhất mà không phải khuôn ép, phụ thuộc nội dung nào khác.
 Ngắn gọn và súc tích.
Phát huy được lời bình của GV - một yếu tố vô cùng cần thiết của giờ dạy học ngữ văn.
2.3.2.2 Chuẩn bị
Giáo án đầy đủ, chu đáo trong đó có các phần “ mở bài” đã được chuẩn bị nhằm “ khơi nguồn cảm xúc”.
 Sự chuẩn bị linh hoạt không chỉ là chuẩn bị cho từng buổi lên lớp cụ thể mà để có được những “ mở bài” ấn tượng cho bài học, khơi dậy sự tích cực của HS là quá trình học hỏi và tích lũy lâu dài trong quá trình trau dồi, học hỏi chuyên môn và ngay cả trong đời sống. 
 Luôn có sổ tay tích lũy chuyên môn với những bài thơ, trích dẫn danh ngôn, câu chuyện đời sống hoặc văn học thú vị, những tình huống liên quan... 
2.3.2 3 Một số ví dụ minh họa.
* Sử dụng những câu chuyện như một cách “dẫn nhập” ấn tượng.
- Sau khi Kiểm tra bài cũ, nhận xét HS, GV có thể dẫn nhập như sau: Cách đây từ rất lâu, trên báo “ Hoa học trò” ở chuyên mục “ Cafe chiều thứ 7” có đăng tải một câu chuyện mang tên “ Dịp đặc biệt” , câu chuyện ấy đã để lại trong lòng cô những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Hôm nay cô sẽ chia sẻ với các em: Một gia đình nhà nọ sinh được hai anh em, một người anh trai và cô em gái. Mỗi ngày hai anh em đều đi học cùng nhau. Một buổi sáng, em gái dắt anh vào tiệm bán đồ lưu niệm và thì thầm “ anh ơi! Sợi dây chuyền này xinh quá!”. Hai anh em ra về trong niềm khát khao của cô bé và những suy nghĩ, dự tính của người anh. Một kế hoạch được đặt ra: Mỗi ngày người anh đều nhịn ăn sáng để hoàn thành mục tiêu có thể tặn

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_khoi_day_hung_thu_trong_gio_hoc_ngu_van_cho_hoc_sinh_lo.docx