Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp thơ, văn trong dạy học môn Lịch sử 12

Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp thơ, văn trong dạy học môn Lịch sử 12

Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc

 Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử , ở các bài học nội dung truyền đạt cho học sinh chỉ là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh. Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động.

Ví dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến. Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khô khan đôi lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng.

 Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học.

 Vì vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học khác như địa, công dân, văn học, vật lí Những bộ môn đó làm cho giờ học lịch sử sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc cách mạng sẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích, hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lịch sử

Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: “Tích hợp thơ, văn trong dạy học môn lịch sử ”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học.

 

doc 13 trang thuychi01 15652
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp thơ, văn trong dạy học môn Lịch sử 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung sáng kiên
3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2. Thực trạng dạy học ở trường THPT Quảng Xương 2
3
2.2.1. Thuận lợi
3
2.2.2. Khó khăn
4
2.2.3. Điều tra cụ thể
4
2.3. Giải pháp thực hiện
4
2.3.1. Một số yêu cầu
4
2.3.2. Một số giải pháp sử dụng giải quyết vấn đề
5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10
2.4.1. Kết quả
10
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
10
3. Kết luận, kiến nghị
11
3.1. Kết luận
11
3.2. Kiến nghị
11
Tài liệu tham khảo
12
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài 
	Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc
	Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử , ở các bài học nội dung truyền đạt cho học sinh chỉ là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh. Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. 
Ví dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến. Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khô khan đôi lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng.
	Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học.
	Vì vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học khác như địa, công dân, văn học, vật lí Những bộ môn đó làm cho giờ học lịch sử sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc cách mạngsẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích, hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lịch sử
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: “Tích hợp thơ, văn trong dạy học môn lịch sử ”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu. 
 Kết hợp kiên thức liên môn để hỗ trợ việc giảng dạy, học tập, khai thác nội dung truyền thống yêu nước trong chương trình lịch sử, để giáo dục cho học sinh. Giúp học sinh năng lực tư duy, rèn luyện kĩ năng kĩ xảo, phát huy tính cực, chủ động, độc lập và sáng tạo trong học tập, làm cho các em cảm thấy yêu Tổ Quốc yêu lao động, các em cảm thấy say mê, hứng thú học tập môn lịch sử. Đồng thời tôi muốn đưa ra một ý kiến cá nhân trong giảng dạy để trao đổi với các bạn đồng nghiệp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
- Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu, sử dụng tài liệu văn học trong giảng dạy và học tập môn lịch sử lớp 11.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh khối 11 trường THPT Quảng Xương 2 (lớp đối chứng 11B3 và 11B5; lớp áp dụng giải pháp của đề tài này 11B2 và 11B4)
1.4. Phương pháp nghiên cứu: [6]
	- Phương pháp thực tiễn trong quá trình giảng dạy và tự nghiên cứu.
	- Các tác phẩm văn học có liên quan
- Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn lịch sử lớp 11, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí 
- Tham khảo ý kiến góp ý của đồng nghiệp, đúc rút kinh nghiệm thực tế.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
	Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng.
	Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, có phương pháp dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ.
Giảng dạy là đưa đến cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị quí báu của loài người về phương diện tri thức cũng như về phương diện tình cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho thế hệ trẻ.
Giảng lịch sử là giảng về quá khứ của xã hội loài người, quá khứ của dân tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo viên và học sinh hướng về những gì rất gần gũi đó là những con người thật những con người cụ thể chứ không phải là những con người hư cấu. Trong lịch sử dân tộc địa phương những con người đó là lại càng gần gũi hơn đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy và học tập lịch sử
	Để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học sinh hiểu biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục. Có câu: “Lời khen của sử còn vinh dự hơn áo đẹp vua ban, lời chê của sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời” [10]. Qua đó ta thấy được môn lịch sử vô cùng quan trọng không những cung cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà còn góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho học sinh.
2.2. Thực trạng dạy và học ở trường THPT Quảng Xương 2
2.2.1. Thuận lợi: 
Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm nhân vật . Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin
Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Đa số học sinh tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
2.2.2. Khó khăn:
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu thích môn học.
Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết.
2.2.3. Điều tra cụ thể:
Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết .
Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương, chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này với sự kiện khác. Cụ thể kết quả đối với các lớp không áp dụng giải pháp:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11B3
42
2
4.8
12
28.6
25
59.5
3
7.1
0
0
11B5
42
1
2.4
9
21.4
27
64.3
5
11.9
0
0
2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Một số yêu cầu
	a. Đối với học sinh:
	Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các câu hỏi trong SGK phần sẽ học.
	Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ.
	Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao cho.
	Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này với sự kiện khác.
	Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa.
	Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử.
	b. Đối với giáo viên:
	Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện tử), Tài liệu văn , thơ, bản đồ tranh ảnh, sơ đồ.
	Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề.
	Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ kiến thức cũ.
	Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay các thắc mắc của học sinh.
	Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai. Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao?
	Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề.
	Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái.
	Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể. 
	Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức.
	Nội dung bài phải thật ngắn gọn cô động nhưng phải đảm bảo nội dung cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài.
2.3.2. Giải pháp sử dụng giải quyết vấn đề
	a. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học:
	Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết các tác phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện tượng kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi sáng tác một tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác phẩm văn học tự nó là tư liệu lịch sử . Ví dụ như Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh
	Trong việc giảng dạy, giáo viên thường sử dụng các loại tài liệu văn học chủ yếu: văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử, truyện, tiểu thuyết, thơ.
	Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền thuyết, cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười. Đây là tài liệu phản ánh nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như truyện Thánh Gióng, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồ sắt phát triển với vũ khí công cụ dùng đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt), đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn) hay Sơn Tinh – Thủy Tinh là biểu tượng đoàn kết, đồng lòng của dân tộc ta đắp đê chống bão, lũ lụt đặc trưng rất rõ của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong buổi đầu lịch sử vừa dựng nước và giữ nước.
	TK XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã kích chế sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước của người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một câu chuyện ngụ ngôn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy cò. Ở truyện Trê Cóc còn có ý nghĩa về luân lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét hủ bại và nực cười ở xã hội xưa, chung quanh những vụ kiện tụng trước cửa quan, người ta thấy trở đi trở lại những chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”. Chung quy thì chỉ người dân là phải chịu thiệt hại, thua cũng thiệt mà được cũng thiệt. Cóc sù sì, thô kệch giống như là những người dân chất phác hiền lành. Trê nhẵn nhụi, trơn tru hay chui luồn, có thể tiêu biểu cho những người có nết láu lĩnh, hay làm việc mờ ám...
	Sử dụng tài liệu văn học dân gian, không chỉ góp phần làm cho bài giảng sinh động, tạo được không khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà giáo viên tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng
	Các tác phẩm văn học vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử có ý nghĩa đối với việc khôi phục hình ảnh quá khứ. Khi nói cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực dân nửa phong kiến thì phải kể đến tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình, một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị.
	Khi sử dụng tài liệu văn học phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo dục – giáo dưỡng và giá trị văn học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện, nhân vật của quá khứ để phục vụ được yêu cầu của nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận thức của học sinh, không làm loãng nội dung bài học lịch sử.
b. Cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử lớp 11:
	Đưa một đoạn thơ, một đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học thêm phong phú, giờ học thêm sinh động
	Ví dụ 1: Khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống xâm lược (từ năm 1858 đến trước năm 1873)” khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này:
Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày.
(Vè dân gian – Cuộc nổi dậy Cao Bá Quát [11])
	Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn lại lần lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất đến các hiệp ước Giáp Tuất, Hác măng, pa-tơ-nốt làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ, giáo viên có thể minh họa:
Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta
	(Cảm khái – Phan Văn Trị [15])
	Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, quân triều đình nhanh chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài thơ “Chạy giặc”
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học, 1971 [14])
	Khi Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì rồi chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh: đánh chìm tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua 2 câu thơ sau [15]:
Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
	Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giặc đem đi hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì khi hết người Nam đánh Tây” [15] vừa là ý chí chống giặc của ông cũng đồng thời là ý chí chống giặc của toàn dân Việt Nam.
	Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc:
	“Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự yếu đuối nào” [15].
	Ví dụ 2: Khi dạy bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau:
Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lòng bất khuất
Về Tàu còn nguyện giết Tây dương.
(Lưu Vĩnh Phúc và trận Cầu giấy [15]).
	Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình 
Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây
( Ca giao kháng chiến chống Pháp - Định hướng việc dạy học lịch sử triều Nguyễn [15])
	Ví dụ 3: Khi dạy bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân tích cuộc sống của người công nhân giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các nội dung sau:
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủn beo
Hay:
Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân
(Mã Giang Lân, Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 [13])
	Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
	Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Qu

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_tho_van_trong_day_hoc_mon_lic.doc