SKKN Hóa học lớp 12 với thực tiễn đời sống

SKKN Hóa học lớp 12 với thực tiễn đời sống

 Hoá học là bộ môn khoa học tự nhiên, vì vậy đôi khi chúng ta nghĩ đây là bộ môn khô khan, khó tiếp thu đối với học sinh. Có lúc học sinh học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức Hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích?

 Môn Hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, Hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là một đòi hỏi cấp thiết, vì nó là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế.

 Có những vấn đề Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học Hóa học trong những câu ca dao, tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.

 

doc 24 trang thuychi01 19444
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hóa học lớp 12 với thực tiễn đời sống", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Hoá học là bộ môn khoa học tự nhiên, vì vậy đôi khi chúng ta nghĩ đây là bộ môn khô khan, khó tiếp thu đối với học sinh. Có lúc học sinh học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức Hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích?
 Môn Hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, Hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là một đòi hỏi cấp thiết, vì nó là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế.
 Có những vấn đề Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học Hóa học trong những câu ca dao, tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.
 Trong việc dạy môn hoá học ở trường phổ thông, người giáo viên phải có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê học tập của học sinh.
 Với những lý do trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu, tham khảo tư liệu và áp dụng đề tài:“Hóa học lớp 12 với thực tiễn đời sống” nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh. Có vậy, hoc sinh sẽ thấy môn Hoá học là môn học gần gũi, dễ hiểu; qua đó từng bước hình thành ở các em lòng yêu thích bộ môn và niềm đam mê khoa học.
I.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan. Đồng thời, đề tài cũng sẽ làm rõ ý nghĩa khoa học hoá học có thể ứng dụng thực tiễn trong đời sống thường ngày qua giảng dạy môn hoá học lớp 12, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Từ những cơ sở đó, đề tài cũng sẽ đem lại cho giáo viên và học sinh những nhận thức về phương pháp học tập, làm việc mang tính hợp tác, thấy rõ vai trò tích cực của học sinh và chủ đạo của giáo viên làm cho Hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù phức tạp.
 Tóm lại, đề tài muốn góp một tiếng nói vào phong trào đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo trong tình hình đất nước hiện nay.
I.3. NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản sau:
 Một là: nghiên cứu những vấn đề lý luận về phương pháp dạy học hoá học ở trường phổ thông.
 Hai là: nghiên cứu tình hình thực tế qua việc dự giờ các tiết dạy của giáo viên cùng bộ môn để đánh giá và rút ra phương pháp giảng dạy thích hợp, đồng thời nghiên cứu hiệu quả học tập của học sinh trong suốt quá trình thực hiện giải pháp.
 Ba là: trên cơ sở thống kê số liệu chỉ rõ cách thực hiện và hiệu quả của việc áp dụng :“Hóa học lớp 12 với đời sống thực tiễn”
 Đối tượng áp dụng đề tài là học sinh lớp 12 trường THPT Lê Lợi, cụ thể là: 
stt
Lớp
Sỉ số
Năm học
1
12A1
44
2017 - 2018
2
12A2
44
2017- 2018
3
12A3
44
2017 - 2018
I.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 I.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các loại sách, báo, tạp chí, tài liệu có liên quan đến đề tài. Đọc và khái quát các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu: chủ yếu là SGK và các loại sách về hóa học trong sản xuất và đời sống.
 I.4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
 I.4.2.1. Phương pháp quan sát
Phương pháp này thực hiện bằng cách theo dõi và phân loại học sinh (Giỏi , Khá, Trung bình, Yếu, Kém) để đưa ra cách giải hợp lý cho từng đối tượng. 
 I.4.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu
Sử dụng hệ thống câu hỏi, phiếu điều tra nhằm thu thập số liệu để đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp.
 I.4.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với tổ trưởng, tổ chuyên môn, và tham khảo ý kiến các giáo viên dạy giỏi về các vấn đề có liên quan đến đề tài.
 I.4.3. Phương pháp thống kê toán học
Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, tôi cho học sinh kiểm tra các kiến thức đã học so sánh đối chiếu với từng năm, từ đó rút ra tỉ lệ phần trăm, nhằm đánh giá thực trạng và định hướng nâng cao hiệu quả của của việc dạy học Hoá học ở trường THPT.
I.5. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này được thực hiện trong phạm vi môn Hoá học lớp 12 ở trường THPT Lê Lợi Thọ Xuân. Về mặt kiến thức kỹ năng đề tài chỉ nghiên cứu một số dạng thuộc lĩnh vực hoá học trong sản xuất và đời sống, hoá học bảo vệ môi trường. Trong đề tài này tôi tập trung vào môn hóa học lớp 12 nhằm tạo thêm tài liệu để học sinh 12 bước vào kỳ thi THPT quốc gia năm học 2017-2018. 
I.6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này đi vào nghiên cứu những biện pháp để nâng cao hiệu quả và phát huy tích cực học tập của học sinh khi học hoá THPT, từ đó góp phần vào việc giáo dục sức khoẻ và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay. Giúp cho học sinh hiểu rõ được mối quan hệ giữa các kiến thức hóa học với thực tiễn đời sống, với xu hướng phát triển của xã hội.
Về mặt khoa học các em học sinh khi gặp những hiện tượng xảy ra trong đời sống hàng ngày thường có tâm lý phải giải thích nó bằng cách nào? Do đó liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học môn hoá học là cách hay nhất để phát triển tư duy và rèn luyện kỹ năng hóa học của mỗi người, phát triển tư duy logic, sử dụng thành thạo và vận dụng tốt kiến thức đã học vào cuộc sống. 
 Về mặt sư phạm, đối với giáo viên suy nghĩ liên hệ thực tế để nâng cao hiệu quả dạy - học còn là một hướng đi có hiệu quả để tổng quát hóa hoặc đặc biệt hóa môn học, điều này góp phần hỗ trợ, phát triển cái hay và mới cho học sinh. Rèn luyện cho học sinh đức tính chính xác, kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa học hóa học. Các liên hệ thực tế trong đề tài còn có tác dụng rèn luyện văn hóa lao động (lao động có tổ chức, có kế hoạch, gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ ).
 Do vậy sáng kiến kinh nghiệm đề cập khía cạnh:“Hóa học trung học phổ thông với đời sống” đã góp phần cho học sinh dễ tiếp thu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.
II. NỘI DUNG
II.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
II.1.1. Cơ sở pháp lý: 
Sáng kiến kinh nghiệm thực hiện chủ yếu dựa trên sách giáo khoa (SGK) hoá học 12, vì vậy SGK là cơ sở pháp lý để xây dựng đề tài. Ngoài ra còn tham khảo sách giáo viên, sách bài tập, các sách tham khảo và các tài liệu có liên quan là cơ sở cho sáng kiến kinh nghiệm.
II.1.2. Cơ sở lý luận: 
 Môn Hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của môn hóa học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh; nâng cao những tri thức, hiểu biết về thế giới, về con người thông qua các bài học, các giờ thực hành...
 Học hoá để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học.
 Học hoá để biết, là góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người... 
 Học hoá để làm, là khởi nguồn, là cơ sở để sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. 
 Để đạt được mục đích của môn Hoá học, ngoài việc phải tiếp thu đầy đủ những kiến thức từ trên lớp, từ sách giáo khoa, từ các thầy cô, học sinh còn tự mình sưu tầm và tìm hiểu những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Vận dụng những kiến thức đã học được để giải thích những hiện tượng đó, nhờ vậy học sinh được củng cố kiến thức sâu sắc hơn. 
 Và cũng nhờ đó học sinh thấy học môn hóa dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn hơn.
II.2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
 II.2.1. Tình hình học sinh học bộ môn hóa của trường THPT Lê Lợi.
Đối với học sinh THPT các em chưa có định hướng sâu sắc về nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Trong quá trình giảng dạy tôi đã phát hiện ra rằng đa số học sinh còn học đối phó, chưa hứng thú tham gia xây dựng bài. Nhiều học sinh tỏ ra lúng túng, không tìm ra cách xử lí, ngay cả những vấn đề tưởng chừng hết sức cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, làm sao các em có thể yêu thích học bộ môn? 
II.2.2. Thực trạng 
 Trong quá trình học tập học sinh ít được hoạt động, nặng về nghe giảng, ghi chép rồi học thuộc, ít được suy luận, động não. Thời gian dành cho học sinh hoạt động trong một tiết học là quá ít, kể cả hoạt động tay chân và hoạt động tư duy. Học sinh chưa được trở thành chủ thể hoạt động. Hình thức hoạt động của học sinh cũng đơn điệu, chủ yếu là nghe thầy đọc và chép vào vở, học sinh ít được động não và thường ít được chủ động tích cực. Do vậy, phương pháp học của học sinh là thụ động, ít tư duy, sáng tạo và học sinh thường gặp khó khăn khi giải quyết những bài tập liên quan đến thực tế.
 Các hình thức hoạt động của thầy và các phương pháp dạy mà thầy sử dụng chưa nhằm vào yêu cầu tổ chức cho học trò hoạt động, chưa chú trọng vào việc hình thành phương pháp tư duy, rèn luyện cho học sinh năng lực sáng tạo. Các hiện tượng được giải thích chưa đúng nhận thức khoa học bộ môn. Đối với hoá học, phương pháp nhận thức khoa học là giáo viên phải tập luyện cho học sinh biết giải quyết vấn đề từ đơn giản đến phức tạp trong học tập chính là chuẩn bị cho các em có khả năng sáng tạo, giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. 
II.2.3. Đánh giá thực trạng:
 Kết quả khảo sát chất lượng môn hoá học ở trường THPT Lê Lợi, Thọ Xuân khi chưa thực hiện đề tài trong năm học 2017-2018, về áp dụng:“Hóa học lớp12 với đời sống thực tiễn”như sau: 
Kết quả khảo sát chất lượng trước khi thực hiện đề tài
Năm học
Lớp
Số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2017- 2018
12A1
 44
1
2.6
3
7.9
10
26.4
20
52.6
4
10.5
12A2
 44
2
5.1
2
5.1
11
28.2
19
48.8
5
12.8
12A3
44
1
2.9
2
5.7
8
22.9
20
57.1
4
11.4
Nguồn khảo sát chất lượng trường THPT Lê Lợi
 Qua nguồn khảo sát trên ta dễ dàng nhận thấy số lượng học sinh đạt từ trung bình trở lên là 37.7%.Trước thực trạng trên, tôi đề xuất một số biện pháp và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
II.3. BIỆN PHÁP VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
II.3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp :
 	Dựa vào thực trạng và nguyên nhân của thực trạng tôi thấy rằng :“Hóa học 12 với đời sống thực tiễn” là nhằm tạo sự hứng thú, say mê trong học tập, lòng yêu khoa học nói chung và yêu thích học môn hoá học nói riêng.
 Để đạt hiệu quả tối ưu trong việc :“Hóa học lớp 12 với đời sống thực tiễn” giáo viên phải kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp giảng dạy để kích thích tư duy, sáng tạo và tính tò mò của học sinh.
II.3.2. Các giải pháp chủ yếu : 
Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thay cho lời giới thiệu vào bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, nhưng tạo được sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
 Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh trong đời sống hàng ngày qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn của bài học và giải thích để giải toả tính tò mò của học sinh.
 Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh trong đời sống hàng ngày qua chuyện kể và có thể xen bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể tạo không khí học tập thoải mái, đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá học.
 Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh trong đời sống hàng ngày sau khi kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng và từ đó học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ “vì sao lại xảy ra hiện tượng đó?” tạo tiền đề thuận lợi cho học bài mới ở tiết sau.
II.3.3. Tổ chức triển khai thực hiện nội dung của đề tài:
II.3.3.1. Tổ chức triển khai thực hiện
 Để tổ chức thực hiện giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như: bằng lời giải thích, hình ảnh đoạn phim, bài hát, câu ca dao, tục ngữ và có
thể dùng máy chiếu.
 Bằng các ví dụ minh hoạ thông qua một số hiện tượng thực tiễn, có thể áp dụng trong từng bài, từng chương cụ thể để nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THPT.
II.3.3.2. Nội dung của đề tài:
 Vấn đề số 1: Tại sao khi vắt chanh vào sữa tươi lại thấy có kết tủa? Kết tủa đó có độc tính không?
Khi cho chanh vào sữa tươi thì một số protein trong sữa sẽ kết tủa lại, nếu sử dụng màng để lọc ra các cục vón này chính là 1 dạng phô mai. Khi nén lại trong khuôn sẽ cho ra cục phô mai. Vì vậy các kết tủa này ko có hại gì hết, cũng hoàn toàn không khó tiêu. Thậm chí một số bà mẹ còn dùng cách lên men tạo acid tự nhiên để lọc ra pho mai tươi cho các em bé ăn đấy
Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? 
Do các phân tử protein trong nước cua bị đông tụ khi đun nóng chúng kết dính lại và nổi trên mặt nước canh cua. 
Áp dụng nội dung này vào bài peptit và protein tiết 21,22,23 lớp 12.
 Vấn đề số 2: Làm thế nào để phân kim vàng?
 Phân kim vàng là phương pháp kỹ thuật giúp bạn thu hồi vàng nguyên chất từ các loại vàng khác (hợp kim vàng).
 Hướng dẫn học sinh phân kim được các loại vàng thấp tuổi lấy ra được vàng y nguyên chất bằng một loại Acid: Vàng thấp tuổi (vàng lẫn tạp chất Cu, Ag) cán mỏng, cắt nhỏ cho vào H2SO4 đặc, nóng (lưu ý trong thực tế người ta thường sử dụng HNO3). Tạp chất sẽ tan trong H2SO4 đặc, nóng, ta sẽ thu được vàng:
 Cu + 2H2SO4 đặc, nóng CuSO4 + SO2 + 2H2O
 Áp dụng: Vấn đề này liên hệ thực tế cho học sinh biết được để ứng dụng trong nghề thợ bạc sau này. Giáo viên có thể xen vào trong tiết 72 “ sơ lược về các kim loại Ag, Au.......” lớp 12. 
 Vấn đề số 3: Hàn the là chất gì mà có độc tính đối với người sử dụng?
Hàn the là tên gọi để chỉ các khoáng chất hay hợp chất hóa học có quan hệ gần nhau, trong hóa học gọi là Borac. Trong hóa học, Borac gồm có các loại sau”
Borac khan hay têtraborat natri khan (Na2B4O7)
Borac pentahiđrat (Na2B4O7.5H2O)
Borac đềcahiđrat (Na2B4O7.10H2O
Hàn the có tính sát khuẩn nhẹ, lại làm cho sản phẩm tinh bột, cá, thịt,...trở nên dai nên hay được các nhà sản xuất ở Việt Nam cho vào thực phẩm để sản phẩm chế biến ra dai và kéo dài thời gian bảo quản và sử dụng.
Tuy nhiên hàn the có thể gây ngộ độc, liều từ 5 gam trở lên đã gây ngộ độc cấp tính, có thể dẫn đến tử vong. Dùng với liều lượng thấp có thể gây ngộ độc mạn tính, ảnh hưởng đến gan, thận, gây biếng ăn và suy nhược cơ thể. Khi vào cơ thể, hàn the khó bị đào thải mà tích tụ trong gan, đến khi lượng tích tụ đủ lớn sẽ gây tác hại mạn tính. Mặc dù hàn the là chất bị Bộ Y tế Việt Nam liệt kê vào danh sách các hóa chất cấm sử dụng trong vai trò của phụ gia thực phẩm, nhưng nó vẫn được sử dụng trong các loại thực phẩm như giò, chả, nem chua, bún, bánh phở, bánh cuốn, bánh su sê, bánh đúc với hàm lượng không có cơ quan nào kiểm soát. Vì thế,việc sử dụng giò, chả cần hết sức cẩn thận. 
Hiện nay các nhà khoa học của Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam đã sản xuất được một loại phụ gia thực phẩm có tên là PDP từ nguyên liệu tự nhiên như vỏ tôm, cua, mai, mực, có thể thay thế hàn the trong sản phẩm chế biến.
 Áp dụng: Vấn đề này liên hệ thực tế cho học sinh biết được tác hại của hàn the để không sử dụng trong thực phẩm đời sống hàng ngày. Giáo viên có thể xen vào trong tiết 46 bài “Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm”.
Vấn đề số 4: Tại sao khi ăn thịt luộc người ta thường vắt chanh vào nước chấm hoặc muối chấm. Khi chấm thì cảm giác miếng thịt sẽ ngọt hơn?
Chất béo bị thủy phân trong môi trường axit tạo thành glixerol và các axit béo. Glixerol có vị ngọt nên khi ta chấm thịt luộc vào nước chấm có vắt chanh sẽ cảm thấy vị ngọt của glixerol.
Áp dụng: Vấn đề này liên hệ thực tế cho học sinh biết được để ứng dụng trong đời sống hàng ngày, giáo viên có thể xen vào trong tiết dạy bài lipit.
 Vấn đề số 5: Em có biết khi sử dụng đồ nhôm ?
Đồ nhôm hầu như đã được phổ biến trong mọi gia đình ở mọi quốc gia trên thế giới. Người ta ưa đồ nhôm vì nó sạch sẽ, nhẹ, đẹp mắt, tiện lợi mà lại rẻ tiền.
Tuy nhiên nhôm có hại cho cơ thể, nhất là đối với người già.
Bệnh lú lẫn và các bệnh não khác ở người già, ngoài nguyên nhân do cơ thể bị lão hoá còn có thể do sự “đầu độc vô tình” của các đồ nấu ăn, đồ đựng bằng nhôm. Tế bào thần kinh trong não của người già bị mắc bệnh não có chứa rất nhiều ion nhôm (Al3+), nếu cứ dùng đồ nhôm trong thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội để ion nhôm xâm nhập vào cơ thể, làm nguy hại tới toàn bộ hệ thống thần kinh não.
Vì thế không nên dùng đồ nhôm để đựng thức ăn, không nên ăn món ăn đựng trong đồ nhôm để qua đêm, không nên dùng đồ nhôm để đựng rau trộn có trộn trứng gà và giấm.
Truyện kể trích: Nhà viết sử cổ đại Plini Bố có kể lại một sự kiện lý thú từng
 xảy ra gần hai ngàn năm về trước. Một hôm, một người lạ đến gặp hoàng đế La Mã Tibêri. Người đó mang tặng hoàng đế một cái chén do chính mình làm ra từ một thứ kim loại lấp lánh như bạc, nhưng lại rất nhẹ. Người thợ nói rằng, anh ta lấy được thứ kim loại mà chưa ai biết này từ đất sét. Có lẽ Tibêri ít khi bận tâm biết ơn ai, và ông ta cũng là một hoàng đế thiển cận. Sợ rằng, thứ kim loại mới với những tính chất tuyệt vời của nó sẽ làm mất hết giá trị của đống vàng và bạc đang cất giữ trong kho, nên vị hoàng đế này đã ra lệnh chém đầu người phát minh và phá tan xưởng của anh ta để từ đấy về sau không còn ai dám sản xuất thứ kim loại “nguy hiểm” ấy nữa.
Mãi đến thế kỷ XVI, tức là khoảng một ngàn năm trăm năm về sau, lịch sử của kim loại này mới được ghi thêm một trang mới. Vị y sư kiêm nhà vạn vật học đầy tài năng người Đức là Philip Aureon Teofrat Bombat Fôn Hôhengây (Philippus Aureolus Theophratus Bombastus Von Hohenheim) - người đã đi vào lịch sử với biệt danh là Paratxen, đã làm được điều đó. Khi nghiên cứu các chất và các khoáng vật khác nhau trong đó có cả các loại phèn, nhà bác học này đã xác định được rằng, chúng là “muối của một loại đất chứa phèn nào đó” mà thành phần của nó có chứa oxit của một kim loại chưa ai biết; thứ oxit này về sau được gọi là đất phèn. 
 Áp dụng: Giáo viên có thể liên hệ trong bài giảng “Nhôm” tiết 55,56 hoá 12 nhằm mục đích cung cấp kiến thức hoá học về sức khoẻ của con người, tạo sự hưng phấn học tập của học sinh.
Vấn đề số 6: Tại sao các vật bằng bạc để lâu ngày thường bị sám đen? Do bạc tác dụng với O2 và H2S trong không khí tạo ra bạc sunfua màu đen theo phản ứng: 4Ag + O2 + 2H2S → 2Ag2S + 2H2O.
Cách làm trắng sáng vật bằng bạc để lâu ngày.
Xét về phương diện hóa học: Dùng oxi già để khử muối bạc, hoặc dùng axit (ví dụ HCl) bạc sẽ sáng bóng như mới.
Cách làm: bạn mua nước oxy già ngoài hiệu thuốc, cho bạc vào, chờ 1 lúc là bạc sẽ sáng bóng, rồi có thể hơ qua lửa, bạc sẽ trở lên đẹp hơn.
Ngoài ra có thể mua axit HCl về rửa, nhưng tốt nhất là không nên vì axit nói chung là độc hại nếu các bạn không biết cách dùng.
Kinh nghiệm dân gian: 
Cho vào giấm đun sôi nhỏ lửa
Lấy tàn thuốc lá chà vào.
Ngâm trong kem đánh răng có chưa nhiều clo trong 5 phút, rồi lấy bàn chải đánh răng ra chà lại.
 Áp dụng: Giáo viên có thể liên hệ trong bài giảng “Sơ lược về các kim loại Ag, Au.” tiết 72 hoá 12. Nhằm mục đích cung cấp kiến thức hoá học về các đồ dùng bằng bạc trong đời sống để học sinh biết cách bảo quản, tạo sự hưng phấn học tập của học sinh.
Vấn đề số 7: Tại sao khi để đoạn mía lâu ngày trong không khí ở đầu đoạn mía có mùi rượu etylic. Ăn vào thì có vị chua?
Trong không khí có thể có một số vi khuẩn giúp phân hủy dần saccarozơ thành glucozơ, sau đó lên men glucozơ thành rượu etylic. Vì vậy mà 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_hoa_hoc_lop_12_voi_thuc_tien_doi_song.doc