SKKN Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Đã từ lâu, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết sức cần thiết. Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tơi những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường say mê “nghiện” sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các em.
1. Mở đầu 1.1 Lí do chọn đề tài Đã từ lâu, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết sức cần thiết. Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tơi những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích. Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản). Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường say mê “nghiện” sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các em. Hơn thế nữa, tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn - Tiếng Việt, môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông thường. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản. Thông qua môn tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bọc lộ những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh những sai lệch trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng tình cảm - đặc biệt qua các thể loại văn học mà các em sẽ học trong chương trình. Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên khiến cho chúng ta chọn đề tài để nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu Phân môn Tập làm văn giúp cho học sinh nắm được các thể loại trong chương trình tập làm văn ở THCS như tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, điều hành. Từ đó giúp học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho học tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết cách xây dựng đoạn văn với nhiều thể loại khác nhau, với bố cục đoạn văn dù ngắn hay dài điều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, hướng dẫn cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục : mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn. Mỗi đoạn văn đều bao hàm môt ý chính của nó. Ý chính đó, có thể đứng ở đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành. Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã tiếp thu được qua các môn Văn - Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hộ để có thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em. 1. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 6 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp kiểm tra, khảo sát. Phương pháp so sánh, đối chiếu. Phương pháp phân tích, tổng hợp. Phương pháp cố vấn, chuyên gia. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn (văn bản) theo những phương thức và bằng những phương tiện rất phong phú. Dựng đoạn được triển khai từ ý trong dàn bài. Có thể đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng có thể một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục ba phần: mở đoan, phát triển đoạn và kết đoạn. Ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn có thể là đoạn diễn dịch, qui nạp, móc xích, song hành Để rèn luyện được kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu cầu diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sao cho phù hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn hút hơn với người đọc. Qua đó, ta có thể hiểu được: đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành. Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cân sử dụng các phương tiện liên kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết: quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát,và dùng câu nối trong đoạn văn. Như vậy, đoạn văn liên kết nhằm mục đích phân biệt nhau liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình THPT. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kién kinh nghiệm Cũng bộ môn Ngữ văn, nhưng theo khảo sát, phần lớn học sinh học phân môn Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn, khiến cho giáo viên và học sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời gian quá ngắn mà lượng kiến thức nhiều, nên chưa tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Một tiết học, chỉ đưa ra một vài ví dụ đơn giản, một vài đoạn mẫu nên học sinh chưa hiểu rõ hết vấn đề, lí thuyết hiểu sơ sài, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn càng bối rối. Những tình trạng viết đoạn văn ở THCS như trên là do nhiều nguyên nhân. Trước là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào tư tưởng lập nghiệp của học sinh sau này như thi vào các trường cao đẳng, đại học Ngữ văn ít hơn các môn khác,và điều quan trọng nhất là cơ chế thị trường thực dụng, con người khô khan, kênh thông tin văn hoá nghệ thuật đa dạng, nhiều loai hình cuốn hút học sinh. Hơn thế nữa phụ huynh lại định hướng cho con em mình theo khuynh hướng trên. Và ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan là môn Tập làm văn khó học, trừu tượng, học sinh không thích học, khó trở thành giỏi văn. Nội dung, chương trình trong SGK còn quá tải, trình độ giáo viên chưa đáp ứng, chất liệu của môn ngữ văn bị giảm xuuống vì đưa nhiều thể loại văn bản nhật dụng, văn bản chính luận, văn bản nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên giao nhiều bài tập, khó được điểm cao. Trên đây là những tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh THCS và nó cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên ta cũng quan tâm hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn, mà đặc biệt là dạy một tiết dựng đoạn văn trong văn bản. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Để khảo sát thực trạng viết văn, dựng đoạn của học sinh THCS, tôi đã tiến hành ra đề như sau: Em hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 -15 câu) miêu tả khung cảnh giờ ra chơi. Thời gian làm bài: 20 phút. Tôi khảo sát thực tế bài làm của học sinh ở lớp 6A và 6B thấy rằng: Có đến 43% số học sinh chưa biết viết đoạn văn. Có 54% HS xây dựng được một đoạn văn nhưng chưa sử dụng triệt để các yếu tố miêu tả. Số học sinh đạt khá, giỏi chiếm tỉ lệ rất thấp: Lớp 6A là 0.3%; Lớp 6B là 10% - một con số đáng báo động trong việc học phân môn Tập làm văn hiện nay trong nhà trường THCS. Số liệu cụ thể ở trường THCS Quảng Hoà như sau: Phân loại Lớp Giỏi Khá Trung bình yếu, kém SL % SL % SL % SL % 6A = 26 0 0 1 3 14 54 11 43 6B = 29 2 7 6 21 17 59 4 13 Cộng: 55 7 13 24 44 20 36 4 7 2.3.1 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn miêu tả 2.3.1.1 Một số vấn đề chung về văn miêu tả - Khái niệm. “Văn miêu tả là một trong những kiểu văn bản rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo văn chương. Đây là loại văn bản có tác dựng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Vớii đặc trưng của mình, những trang miêu tả làm cho tâm hồn con người và trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn”. ( Đỗ Ngọc Thống, Phạm Minh Diệu- Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông. Nhà xuất bản giáo dục, năm 2003). Miêu tả là một phương thức biểu đạt khá thôn dụng, được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng ngôn ngữ của con người, kể cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Cần hiểu rõ: văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc hình dung ra được những đặc điểm tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh, nhằm cho những cái đó như hiện lên trước mắt ngươi đọc. Qua văn miêu tả người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ bề ngoài màu sắc, hình dáng, kích thước, trạng thái, mà còn hiểu rõ hơn bản chất bên trong của đối tượng. Trong chương trình Ngữ văn THCS, yêu cầu của văn tả cảnh tập trung ở lớp 6. Đến lớp 7, 8, 9 văn miêu tả được nhắc lại trong các kiểu văn biểu cảm, thuyết minh, tự sự, nghị luận. Giúp học sinh thấy được vị trí, tầm quan trọng, giá trị của văn miêu tả trong kể chuyện, trong thuyết minh, trong biểu cảm và trong nghị luận. - Yêu cầu của văn miêu tả Để miêu tả và viết tốt bài văn, đoạn văn miêu tả học sinh phải quan sát, so sánh, tưởng tượng, nhận xét, ngôn từ, xúc cảm, tình cảm. Quan sát là một trong những hoạt động của con người để nhận thức thế giới. Trong quá trình quan sát cần gắn với so sánh liên tưởng để phát hiện ra những nét giống nhau gần nhau, đối lập nhau trong thế giới khách quan giữa các sự vật, hiện tượng, từ đó miêu tả đúng bản chất, gọi tên đúng sự vật hiện tượng. Tưởng tượng có vai trò rất quan trọng trong đời sống, trong lao động và trong sự hình thành, phát triển nhân cách của con người. Tưởng tượng tích cực tạo nên những hình ảnh đẹp đẽ, rực rỡ, phản ánh những mơ ước, lí tưởng của con người, kích thích những nhu cầu thẩm mĩ và tình yêu đối với cuộc sống, Khi viết đoạn văn miêu tả người ta thường dùng liên tưởng, ví von, so sánh. Nhờ có so sánh, liên tưởng mà văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, kích thích được óc sáng tạo của người đọc. Ngôn ngữ - Tiếng Việt phong phú và giàu đẹp, Tiếng Việt giàu về vốn từ vựng, về các vốn từ như đồng âm, đồng nghĩa, tượng thanh, tượng hình. Chúng ta lại phong phú về lối nói ẩn dụ, nhân hoá, so sánh, tưởng tượng, cùng những cách diễn đạt đa dạng, với các kiểu câu Tiếng Việt. Đó là điều kiện thuận lợi khi sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt để miêu tả sự vật, hiện tượng, tâm lí, tính cách. Tuỳ vào đối tượng miêu tả để sử dụng lớp từ ngữ phù hợp. Đoạn văn miêu tả rất hay dùng và dùng có hiệu quả các biện pháp tu từ, nhân hoá, ẩn du, hoán dụ, tượng trưng, so sánh ví von. Khi viết một đoạn văn miêu tả, bài văn miêu tả cảm xúc, tình cảm là một yếu tố cực kì quan trọng. Để có một đoạn văn miêu tả hay, người viết không chỉ tài quan sát và thể hiện bằng các từ ngữ, hình ảnh, bằng lối nói so sánh, ví von độc đáo, mà còn phải có tình. Cái tình ấy có thể là căm ghét cái ác, cái xấu, cái lố lăng, kịch cởm ở đời. Không có cái tình, mọi sự miêu tả dù ngôn ngữ có sắc sảo, phong phú và mới mẻ đến bao nhiêu cũng chỉ là làm xiếc ngôn ngữ. Trong trường hợp này bài văn miêu tả chỉ là cái xác không hồn, không gây được xúc động trong lòng người đọc. - Rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả Thứ nhất đó là kĩ năng quan sát, ghi chép. Đối tượng của văn miêu tả những sự vật, sự việc, là thiên nhiên, là con người và cuộc sống của con người. Có thể coi đó là một thế giới hết sức mới lạ và đa dạng, phức tạp vàn sống động đang diễn ra quanh ta, thay đổi từng ngày, từng giờ. Vì vậy, phải quan sát, ghi chép. Tất nhiên các em không thể có ngay được kĩ năng ấy và sử dụng nó thành thạo như các nhà văn vẫn làm. Tất cả đối với các em chỉ mới là bước đầu tập dượt : Tập quan sát, tập ghi chép, tập phát hiện ra những đặc điểm của các sự vât, hiện tương quanh mình. Từ đó, có vốn để làm văn miêu tả, viết một đoạn văn miêu tả. + Kĩ năng tưởng tượng: Có thể khẳng định rằng, nếu không có kĩ năng tưởng tượng thì bài văn miêu tả chắc chắn sẽ không hay được, dù là văn tả thực. Vì vậy, cần tưởng tượng và sáng tạo tạo thêm để bổ sung những hình ảnh phù hợp, làm cho bức tranh miêu tả trở nên phong phú và sinh động hơn. Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Tô Hoài không thể xây dựng được bức tranh phong phú về thế giới loài vật như trong tác phẩm “ Dế Men phiêu lưu kí”. Không có tưởng tượng chắc chắn nhà văn Vũ Tú Nam không thể viết được trang văn miêu tả thay đổi kì diệu màu nước biển trong “ Biển đẹp”. Vậy khi làm văn miêu tả, trí tưởng tượng được dùng với vai trò gì? Có thể nói rằng vai trò của trí tưởng tượng rất lớn. Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự phong phú cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà con giúp cho người làm văn miêu tả tìm được những từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn, đoạn văn hấp dẫn hơn. + Kĩ năng so sánh: So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng. Chính sự liên tưởng, so sánh này làm cho trang văn miêu tả hay hơn và đối tượng miêu tả hiện rõ hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Nếu xét về đối tượng, hiện tượng so sánh trong văn miêu tả hết sức đa dạng và phong phú: Có thể so sánh người với người, so sánh người với các con vật, đồ vật, so sánh người với với cây cối, so sánh người với các hiện tượng tự nhiên. Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh. Có thể so sánh vật với con người. Và nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau: So sánh theo hướng thu nhỏ. So sánh theo hướng phóng đại. So sánh theo hướng cụ thể hoá. So sánh theo hướng trừu tượng hoá. Tuy nhiên, khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu ý là phải biết sáng tạo , biết tìm điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ, quá sáo mòn. + Kĩ năng nhận xét: Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người là cách biểu lộ thái độ, tình cảm riêng của con người đối với đối tượng được miêu tả. Một nhà văn Pháp viết: “Một trăm thân cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng thế nhưng nhìn kĩ thì cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa nào cũng khác. Trong đời ta gặp bao nhiêu người phải thấy ra mỗi người mỗi khác, không ai giống ai. (Dẫn theo Tô hoài- Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả). Vấn đề là phải vận dụng cách nhận xét như thế nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả. Trước hết, có thể nhận xét bằng những lời bình, những câu cảm thán, những hình ảnh so sánh: “Chà ! Chà ! Béo ơi là béo ! Gớm ! Béo đâu có béo lạ béo lùng thế. (Nguyễn Công Hoan). Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả. Đây là thái độ mỉa mai, giễu cợt của nhà nhà văn Nguyễn Công Hoan khi miêu tả hình ảnh của một “bà chủ” : “ Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, Đố ai giám bảo là một người. Nếu người ta chưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất đi”. Còn đây là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn Vũ Tú Nam khi quan sát và miêu tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như thổi: “Rồi quả thi nhau chòi ra, bằng ngón tay, bằng con chuột. Rồi bằng con cá chuối to”. 2.3.1.2 Cách dựng đoạn trong văn miêu tả - Cách dùng từ ngữ, hình ảnh. Việc lựa chọn từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết văn trước hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích lữy vốn từ cần được tiến hành thường xuyên và dưới nhiều hình thức: thông qua các giờ Văn- Tiếng Việt, thông qua giao tiếp hàng ngày, quá trình đọc sách, đọc tài liệu tham khảo có liên quan tới văn miêu tả. Ví như tả cảnh sóng biển có nhịều từ ngữ gợi hình, gợi thanh: cuồn cuộn, nhấp nhô, lăn tăn, rì rầm, rì rào, lô nhô. Nhưng không phải là sóng lúc nào cũng dùng được tất cả các từ ấy. Từ sóng biển lúc trời động thì phải dùng từ “cuồn cuộn”; Lột tả tiếng sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ “ì oạp”, tả tiếng sóng biển vọng lại trong đêm mà nghe xa thì dùng từ “rì rầm” Tả cây cối cũng có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau: “xanh um”, “xanh rì”, “xanh non”. Nhưng khi đi vào thực tế mỗi loại cây sẽ có một loại xanh riêng, không lẫn lộn : cây rau cải trong vườn hay cây lúa đang thì con gái thì phải là “xanh mơn mởn”, “xanh rờn”; Cây cối trong rừng rậm rạp thì phải là “xanh rì”, “xanh tốt”. Bên cạnh việc lựa chon từ ngữ, vấn đề tạo hinh ảnh trong văn miêu tả cũng không kém phần quan trọng. Có thể thấy rõ câu văn miêu tả giàu hình ảnh bao nhiêu thì sức gợi cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu. Tuy nhiên khi sử dụng các nghệ thuật bên trong bài văn miêu tả, chúng ta cần lưu ý những nghệ thuật ấy chỉ thực sự có tác dụng nếu được dùng đúng lúc, đúng chỗ, hợp văn cảnh. - Cách đặt câu, dựng đoạn văn miêu tả Cũng như văn tự sự, cách đặt câu trong văn miêu tả đòi hỏi người viết phải lựa chọn sắp xếp rất công phu. Ngoài việc đặt câu, cách dựng đoạn và liên kết đoạn trong một bài văn miêu tả cũng rất cần được quân tâm. Thông thường khi làm văn, học sinh chia làm ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Chúng ta cần xác định những ý cần triển khai trong nội dung bài văn miêu tả để chia các phần trong bài thành các đoạn văn tương ứng. Có nhiều cách để chia đoạn trong bài văn miêu tả. Chia đoạn theo trình tự thời gian: người làm bài đặt đối tượng miêu tả vào các khoảng thời gian khác nhau. Trong một năm thì theo bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, trong một ngày, thì có sáng - trưa - chiều - tối; Trong một quá trình thì có bắt đầu - diễn biến - kết thúc. Chia theo trình tự không gian: người làm bài quan sát đối tượng miêu tả ở nhiều góc độ và từ hướng khác nhau: từ xa nhìn lại, từ ngoài nhìn vào, từ trong nhìn ra, từ trên nhìn xuông, từ dưới nhìn lên, nhìn bên trái, bên phải, phía trước, phía sau, nhìn toàn cảnh, nhìn chi tiết. Chia đoạn theo đặc điểm, tính cách của đối tượng được miêu tả: mỗi đặc điểm tính chất có thể được tách ra để miêu tả trong một đoạn văn độc lập. Chia đoạn theo số lượng được miêu tả: có thể sử dụng cách chia đoạn này cho kiểu bài tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt, tả thế giới loài vật, đồ vật. Ví dụ: tả cảnh thiên nhiên có bầu trời, không trung, mặt đất; cảnh khu vườn, ngoài đồng. Thông thường mở rộng ý theo một hướng sau: Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với những đối tượng khác, hoặc đặt đối tượng đang miêu tả trong các quan hệ với những đối tượng xung quanh. Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đường nét, hình dáng, đặc điểm của đối tượng. Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn miêu tả là n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_hieu_qua_cua_sang_kien_kinh_nghiem_doi_voi_hoat_dong_gi.doc