SKKN Giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại

SKKN Giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại

Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học rất quan trọng, nó góp phần hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy: Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam; bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.

Ở lớp 4, mục tiêu dạy – học môn Tiếng Việt được cụ thể hóa thành những yêu cầu kiến thức và kĩ năng thông qua học việc tập các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện. Trong phân môn Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu,. trong đó có hệ thống các từ loại là: danh từ (DT), động từ (ĐT), tính từ (TT). Các kiến thức về từ loại lớp 4 giúp cho học sinh phân biệt được các từ loại, cách dùng từ, đặt câu có ý nghĩa, vận dụng trong viết chính tả, làm bài tập tiếng Việt. Không những thế, những kiến thức về từ loại sẽ giúp học sinh phát triển được vốn từ, kĩ năng nhận diện, sử dụng thành thạo khi viết văn. Tuy nhiên, trong thực tế, những kiến thức về từ loại rất phong phú, đa dạng và học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận diện, phân loại từ loại, vận dụng từ loại vào dùng từ, đặt câu, Nếu không nắm vững những kiến thức cơ bản làm nền tảng thì học sinh dễ bị nhầm lẫn, mắc phải những lỗi sai cơ bản. Bên cạnh đó, nếu không được củng cố kiến thức ngay sau khi học thì học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển ngôn ngữ viết của mình.

 

doc 18 trang thuychi01 648817
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
2
I. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2
II. Thực trạng.
3
III. Các giải pháp thực hiện:
4
1. Căn cứ vào cấu tạo của từ (từ đơn, từ phức), hướng dẫn học sinh cách xác định ranh giới từ trước khi xác định từ loại.
4
2. Dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
6
3. Xác định danh từ, động từ, tính từ thông qua khả năng kết hợp của từ.
9
4. Hướng dẫn học sinh phân biệt động từ chỉ hoạt động, động từ chỉ trạng thái.
11
5. Tổ chức trò chơi học tập cho học sinh.
13
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
14
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
15
1. Kết luận
15
2. Kiến nghị
15
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học rất quan trọng, nó góp phần hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy: Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam; bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam. 
Ở lớp 4, mục tiêu dạy – học môn Tiếng Việt được cụ thể hóa thành những yêu cầu kiến thức và kĩ năng thông qua học việc tập các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện. Trong phân môn Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu,... trong đó có hệ thống các từ loại là: danh từ (DT), động từ (ĐT), tính từ (TT). Các kiến thức về từ loại lớp 4 giúp cho học sinh phân biệt được các từ loại, cách dùng từ, đặt câu có ý nghĩa, vận dụng trong viết chính tả, làm bài tập tiếng Việt. Không những thế, những kiến thức về từ loại sẽ giúp học sinh phát triển được vốn từ, kĩ năng nhận diện, sử dụng thành thạo khi viết văn. Tuy nhiên, trong thực tế, những kiến thức về từ loại rất phong phú, đa dạng và học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận diện, phân loại từ loại, vận dụng từ loại vào dùng từ, đặt câu,Nếu không nắm vững những kiến thức cơ bản làm nền tảng thì học sinh dễ bị nhầm lẫn, mắc phải những lỗi sai cơ bản. Bên cạnh đó, nếu không được củng cố kiến thức ngay sau khi học thì học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển ngôn ngữ viết của mình.
Vì thế, đối với giáo viên, dạy từ loại cho học sinh là một nhiệm vụ rất quan trọng đang được nhiều giáo viên quan tâm đến. Việc giáo viên nắm vững kiến thức và truyền đạt một cách dễ hiểu, kích thích niềm đam mê, luyện kĩ năng nhanh nhẹn, phát triển sự sáng tạo cho học sinh là một việc rất cần thiết đòi hỏi mỗi giáo viên phải quan tâm và trăn trở.
Là một giáo viên nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi nhận thấy học sinh vẫn còn bị nhầm lẫn khi xác định từ loại đặc biệt sai nhiều ở các nhóm nhỏ của từng nhóm từ loại.
Làm thế nào để giúp học sinh có kĩ năng xác định tốt phần từ loại? Vấn đề này làm tôi băn khoăn, suy nghĩ và trăn trở trong nhiều năm giảng dạy, nó là động lực khiến tôi luôn tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu. Và qua nghiên cứu, áp dụng từ các năm học: 2012 – 2013; 2013- 2014; 2014- 2015 bước đầu đã có kết quả khả quan. Tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm dạy học sinh lớp 4 học tốt phần từ loại qua đề tài: “Giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại.” 
Với đề tài này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một góc nhỏ của từ loại (danh từ, động từ, tính từ) mong rằng nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lí và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh và áp dụng trong giảng dạy. 
2. Mục đích nghiên cứu:
	Tìm ra biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu trong tiếng Việt đặc biệt là phần từ loại.
3. Đối tượng nghiên cứu: Giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
	Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp điều tra thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Kiến thức về từ loại được dạy học trong chương trình tiểu học:
- Ngay từ các lớp Hai, lớp Ba, học sinh đã được học về từ loại nhưng ở mức độ đơn giản hơn, các em được học về: Từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, trạng thái, từ chỉ đặc điểm, tính chất.
- Nội dung từ loại trong chương trình lớp 4 gồm: 
+ Danh từ: 5 tiết (Tuần 5, 6, 7, 8: gồm cả các cách viết hoa danh từ riêng)
+ Động từ: 2 tiết (Tuần 9 và 11)
+ Tính từ: 2 tiết (Tuần 11, 12)
Danh từ, động từ, tính từ bao gồm những loại nhỏ hơn như: Danh từ có danh từ chỉ sự vật, danh từ chỉ hiện tương. Động từ có: động từ chỉ hoạt động, động từ chỉ trạng thái. Tính từ có: tính từ chỉ đặc điểm, tính từ chỉ tính chất.
Qua việc nghiên cứu chương trình và thực tế dạy học tôi nhận thấy, từ loại rất gần gũi, quen thuộc với học sinh. Lên lớp 4, hệ thống các từ ngữ ấy được gọi tên theo 3 nhóm từ loại: danh từ, động từ, tính từ. Và mỗi nhóm từ loại lại được chia thành các nhóm nhỏ hơn.Về bản chất là không thay đổi và chỉ khác nhau về tên gọi khái quát hơn.
Như vậy, nhìn vào hệ thống phần từ loại ở lớp 4 mà học sinh cần nắm vững, chúng ta thấy: Kiến thức từ loại được cung cấp ngay từ các tuần đầu năm học. Việc học sinh nắm vững các từ loại các em sẽ biết sử dụng từ tiếng Việt đúng, tạo cơ sở để học sinh nắm chắc về câu, kiểu câu kể (Mẫu câu: Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?). Các câu này đều xác định vị ngữ dựa vào ý nghĩa của từ loại. Vì vậy, nếu học sinh không nắm chắc từ loại thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định ba mẫu câu kể trên. Hơn nữa, việc nắm chắc từ loại học sinh sẽ viết văn có hình ảnh, đúng ngữ pháp. Đó cũng chính là mục đích cơ bản của giáo viên khi dạy tiếng Việt cho học sinh là các em hiểu và biết rõ mình đang nói (viết) cái gì. Khi đó, các em sẽ có những từ ngữ, câu văn đúng với ý mình muốn diễn đạt. Vì vậy, dạy cho học sinh nắm vững từ loại trong phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 là rất quan trọng.
II. Thực trạng dạy - học phần từ loại trước khi áp dụng sáng kiến:
Qua thực trạng dạy – học và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc xác định từ loại của học sinh vẫn còn có những tồn tại như sau:
	- Nhiều em chưa xác định được danh từ, động từ hay tính từ.
	- HS còn xác định sai các từ loại có trong đoạn văn, đoạn thơ cho trước.
	- Xác định từ loại còn nhầm lẫn giữa động từ hoặc tính từ, danh từ (một số trường hợp khó phân biệt).
Tôi đã tiến hành khảo sát HS các lớp khác của GV trong khối, với các bài tập sau: 
	Bài tập 1: Cho các từ sau: lơ thơ, ruộng nương, nhà cửa, đi đứng, mênh mông, vuông vắn, đu đưa, khôn khéo, mẹ, khỏe khoắn, hiền, sao sáng, sung sướng, inh ỏi.
- Xếp các từ trên vào 3 nhóm: danh từ, động từ, tính từ.
	Bài tập 2: Cho hai câu thơ sau:
 "Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời."
 (Nguyễn Duy)
	- Xác định danh từ, động từ, tính từ trong hai câu trên.
Bài tập 3: Hãy xác định danh từ, động từ, tính từ trong các từ sau:
Sách vở, kiên nhẫn, kỉ niệm, yêu mến, tâm sự, lo lắng, xúc động, nhớ, thương, lễ phép, buồn, vui, thân thương, sự nghi ngờ, suy nghĩ, cái đẹp, cuộc vui, cơn giận dữ, trìu mến, nỗi buồn, niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình thương, yêu thương, đáng yêu.
*. Kết quả khảo sát như sau:
Lớp
Tổng số học sinh
Số HS tìm sai (thiếu) danh từ
Số HS tìm sai (thiếu) động từ 
Số HS tìm sai (thiếu) tính từ
Số HS có không biết xác định ranh giới từ.
4B
30
6
5
7
25
4C
30
4
4
5
26
 4D
30
8
9
8
24
*. Nguyên nhân của những tồn tại: 
- HS chưa xác định được ranh giới từ trong đoạn văn, đoạn thơ – Do GV khi dạy chưa định hướng giúp học sinh cách phân tách ranh giới từ trước khi xác định từ loại khiến học sinh bị lúng túng và sai nhiều.
- HS chưa hiểu hết bản chất khái niệm của danh từ, động từ, tính từ. Đặc biệt là chưa hiểu được mỗi nhóm từ loại lại được chia thành các nhóm nhỏ hơn và đặc điểm nhận diện của chúng lại khác nhau. 
- Khi dạy học GV chưa hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập mà mới chú ý đến việc giải quyết lần lượt hết các bài tập ở sách giáo khoa là xong nhiệm vụ của tiết dạy.
- Thực tế nhiều GV cũng còn khá lúng túng khi xác định các từ loại do chưa nghiên cứu những nội dung kiến thức có liên quan đến từ loại, khi hướng dẫn học sinh xác định từ loại chưa đặt từ vào văn cảnh cụ thể mà chỉ dựa vào nghĩa của từ là chủ yếu.
III. Các giải pháp thực hiện:
	1. Căn cứ vào cấu tạo của từ (từ đơn, từ phức), hướng dẫn học sinh cách xác định ranh giới từ trước khi xác định từ loại.
	Đối với học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 4 việc phân cách ranh giới từ cần tạo thành thói quen để giúp học sinh hiểu rõ nghĩa của từ và vận dụng tốt. Thực tế, học sinh khi xác định từ loại trong các từ cho trước thì ít bị sai, nhưng khi xác định từ loại có trong một đoạn văn, đoạn thơ lại xác định sai nhiều. Do không biết cách xác định ranh giới từ nên các em nhầm lẫn xác định cả cụm từ hoặc tiếng. Cá biệt vẫn có HS vẫn xác định được từ, song khi xếp vào từng nhóm từ loại lại thiếu từ (bỏ sót).
	*. Tôi đã hướng dẫn HS cách phân cách ranh giời từ trong đoạn văn, đoạn thơ như sau:
	- Học sinh tự đọc câu văn (hoặc đoạn văn, đoạn thơ) nhiều lần.
	- Học sinh dùng dấu gạch xéo (/) phân cách ranh giới các từ.
	*. Riêng bước xác định phân cách từ lần nữa tôi lưu ý các em phải căn cứ vào khái niệm từ đơn, từ phức để không bị nhầm lẫn: Từ bao giờ cũng có nghĩa. Từ gồm một tiếng gọi là từ đơn, từ gồm hai hay nhiều tiếng gọi là từ phức.
	*. Khi xác định ranh giới từ, nếu từ nào các em còn phân vân, chưa biết đó là 1 từ ghép hay 2 từ đơn, thì có thể vận dụng các cách sau:
Dựa vào tính hoàn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa của từ, ta có thể xác định được 1 tổ hợp nào đó là 1 từ phức hay 2 từ đơn bằng cách xem xét tổ hợp ấy về 2 mặt: kết cấu và nghĩa.
 Cách 1: Dùng thao tác chêm, xen: Nếu trong một tổ hợp quan hệ giữa các tiếng lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm, xen 1 tiếng khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của tổ hợp đó không thay đổi thì đó là 2 từ đơn. Nếu nghĩa của tổ hợp đó thay đổi thì đó là 1 từ phức.
 Ví dụ : Từ “quần áo” trong câu: Em có nhiều quần áo đẹp. 
Ta dùng cách chêm xen từ như sau: Em có nhiều quần và áo đẹp.
Sau khi chêm xen từ “và” vào giữa “quần áo”, về cơ bản nghĩa của từ không thay đổi. Cả hai cách nói trên đều có nghĩa là em có quần và có áo đẹp.
Mặt khác, trong câu: Con giặt quần áo giúp mẹ nhé! (từ “quần áo” ở đây là một từ ghép vì nó chỉ chung các đồ dùng cá nhân trong nhà.
Cách 2 : Một tổ hợp nếu có thế đối lập thì đấy là kết hợp của 2 từ đơn. 
Ví dụ : Trong câu sau:
- Bạn ấy cứ chạy lên rồi lại chạy xuống hết tầng nọ đến tầng kia.
Ta thấy “chạy lên” và “chạy xuống” là 2 từ đối lập nhau. Vậy “chạy lên” và “chạy xuống” là kết hợp của các từ đơn. 
Cách 3: Những yếu tố được dùng với ý nghĩa thay thế cũng là từ phức.
	 Ví dụ 1: Tổ hợp in nghiêng trong câu sau là từ đơn hay từ phức?
- Những cánh bướm rập rờn bên khóm hoa. 
- Ở câu trên, “những cánh bướm” ý muốn chỉ “những con bướm” và “cánh bướm” được dùng thay thế cho “con bướm”. Vậy “cánh bướm” là từ phức.
Ví dụ 2: Tổ hợp “ông cha” trong câu thơ sau là từ phức hay kết hợp của các từ đơn?
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa.
 (Trích Truyện cổ nước mình)
- Trong trường hợp trên, “cha ông” ý muốn nói “tổ tiên” vậy “ông cha” được dùng thay thế cho “tổ tiên”. Chính vì vậy “cha ông” là từ phức.
*. Sau khi hướng dẫn HS cách xác định từ đơn, từ phức, cuối cùng tôi củng cố và nêu các bước làm của dạng bài: Xác định từ loại có trong đoạn văn (đoạn thơ hay câu văn câu thơ) như sau:
- Học sinh đọc đoạn văn (đoạn thơ hay câu văn câu thơ) nhiều lần.
	- Học sinh dùng gạch xéo (/) phân cách ranh giới các từ.
	- Xác định các từ loại theo yêu cầu của đề bài.
Để trách nhầm lẫm hoặc thiếu (bỏ sót) từ, tôi lưu ý các em khi làm bước 3 cần đọc đến câu nào, từ nào thì xác định luôn nó thuộc nhóm từ loại nào và ghi vào nhóm đó.
Bài tập vận dụng :
Bài tập 1: Tìm từ đơn, từ phức trong đoạn văn sau:
Chim Sẻ và Chim Chích là đôi bạn thân, nhưng tính tình khác nhau. Chích xởi lởi, hay giúp bạn. Còn Sẻ thì đôi khi bụng dạ hẹp hòi. Một hôm, Sẻ được bà ngoại gửi cho một hộp hạt kê. Sẻ không muốn chia cho Chích cùng ăn. Thế là hằng ngày Sẻ ở trong tổ ăn hạt kê một mình.
- Dựa vào kiến thức đã học về cấu tạo từ, tôi hướng dẫn để các em cách xác định ranh giới từ như sau:
Chim Sẻ /và/ Chim Chích/ là /đôi bạn /thân/, nhưng/ tính tình/ khác /nhau/. Chích/ xởi lởi/, hay /giúp /bạn/. Còn /Sẻ/ thì/ đôi khi/ bụng dạ/ hẹp hòi/. Một hôm/, Sẻ/ được/ bà ngoại/ gửi/ cho/ một/ hộp/ hạt kê/. Sẻ/ không/ muốn/ chia/ cho/ Chích/ cùng/ ăn/. Thế là/ hằng ngày/ Sẻ/ ở/ trong tổ/ ăn/ hạt kê/ một/ mình/.
- Dựa vào ranh giới từ đã được xác định, học sinh tôi dễ dàng tìm được từ đơn, từ phức có trong đoạn văn :
Học sinh có thể trình bày bài làm như sau :
Từ đơn
Từ phức
Và, là, thân, nhưng, Chích, hay, giúp, bạn, còn, thì, Sẻ, được, gửi, cho, một hộp, không, muốn, chia, cho, cùng, ăn, ở, trong, tổ, một, mình.
Chim Sẻ, Chim Chích, đôi bạn , tính tình, xởi lởi, đôi khi, bụng dạ, hẹp hòi, một hôm, bà ngoại, hạt kê, thế là, hằng ngày.
	Với cách làm như trên, tôi cung cấp thêm hệ thống các bài tập cùng dạng để học sinh được thực hành luyện kĩ năng xác định từ theo cấu tạo.
Bài tập vận dụng:
Bài 1: Tìm từ đơn, từ phức có trong đoạn văn sau :
Bầu trời Việt Nam luôn một màu tím biếc, những bãi cát vàng nghe tiếng lao xao ào ào của biển xanh bát ngát chân trời. Đất này, có nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp. Hàng ngàn hòn đảo ở Vịnh Hạ Long, những Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Nha Trang, những Tháp Tràm cổ kính rong rêu.
Bài 2: Tìm xác định từ đơn, từ phức có trong đoạn thơ sau.
 Quê hương tôi có con sông xanh biếc
 Nước gương soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
 Toả nắng xuống lòng sông lấp lánh.
Bài 3: Tìm các từ phức trong các kết hợp được in nghiêng dưới đây:
 Vườn nhà em có rất nhiều loài hoa : hoa hồng, hoa cúc, hoa nhài,...Màu sắc của hoa cũng thật phong phú: hoa hồng, hoa vàng, hoa trắng, ...
	Như vậy bước xác định ranh giới từ là rất quan trọng giúp các em phân tách từ chắc chắn hơn và không bị lúng túng khi xác định từ đơn, từ phức. Đó cũng là nền tảng vững chắc để các em xác định các danh từ, động từ, tính từ có trong câu văn, câu thơ hay đoạn văn, đoạn thơ. 
	2. Dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
	Muốn xác đinh tốt từ loại trước hết cần nắm vững khái niệm, bản chất về từng nhóm từ loại và các nhóm nhỏ của danh từ, động từ, tính từ.
Muốn dạy đạt theo chuẩn kiến thức và chương trình giảm tải, giáo viên cần:
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy.
- Định hướng rõ phương pháp dạy học tiết học đó.
- Cho học sinh được thực hành và làm việc tự các em sẽ là người rút ra khái niệm (dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh)
- Hướng dẫn học sinh làm bài theo hệ thống để học sinh luyện tập thực hành các kiến thức đã học nhưng cần chú ý tới tất cả các đối tượng học sinh.
2.1. Về danh từ:
Trong thực tế dạy - học, học sinh thường xác định đúng các danh từ riêng vì nó có dấu hiệu chính tả rõ ràng: Danh từ riêng là những từ chỉ tên riêng của một sự vật. Danh từ riêng luôn luôn được viết hoa. Chính vì thế, khi dạy về danh từ, tôi đã chú ý hướng dẫn học sinh cách xác định danh từ chung.
Ví dụ: Khi dạy bài Danh từ (Tiếng Viêt 4 – Tập 1 – trang 52, 53) 
Chương trình sách giáo khoa đã nêu khái niệm danh từ như sau: Danh từ là từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị). 
Tuy nhiên thực hiện theo chuẩn kiến thức và kĩ năng, học sinh chỉ cần chỉ ra: Danh từ là từ chỉ vật: chỉ người, vật, hiện tượng. Phần Luyện tập, học sinh không phải làm.
Như vậy, nội dung kiến thức đã được giảm nhẹ hơn so với trước đó. Căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng, tôi đã dành thời gian làm chắc khái niệm về danh từ và tổ chức cho mọi HS được nêu ví dụ, chú ý đến việc rèn luyện các kỹ năng xác định danh từ.
Như đã phân tích, trong chương trình Luyện từ và câu lớp 2 và lớp 3, các em đã được học về các từ chỉ sự vật là những từ chỉ người, chỉ vật. Chính vì thế, các em sẽ thực hiện được yêu cầu về “tìm từ chỉ người, chỉ vật” có trong đoạn thơ.
Trước khi hình thành khái niệm về danh từ, tôi tổ chức cho các em tìm và nêu thêm các từ dùng để gọi tên người và tên các bộ phận của thể người; từ dùng để gọi tên các đồ vật và các bộ phận của đồ vật; gọi tên cây cối, các bộ phận của cây cối; gọi tên con vật, 
Đặc biệt, sau khi củng cố về các từ chỉ người, chỉ vật, tôi gợi ý để HS tìm các từ dùng để gọi tên các hiện tượng trong tự nhiên rất gần gũi với các em như (mưa, nắng, gió, bão,). Từ đó giới thiệu: Những từ dùng để chỉ người, chỉ vật, chỉ hiện tượng gọi là danh từ.
Với những định hướng trên, học sinh tôi dễ dàng rút ra khái niệm Thế nào là danh từ? Chính vì thế, các em vận dụng kiến thức vào thực hành – luyện tập rất hiệu quả.
2.2. Động từ:
 Dạy về động từ, cần giúp các em phân biệt rõ hai nhóm động từ: Động từ chỉ hoạt động và động từ chỉ trạng thái.
Khi dạy bài Động từ (Tiếng Việt 4, Tập 1, trang 93, 94)
Tôi đặc biệt gợi ý để HS nêu rõ các yêu cầu của bài tập 2 phần Nhận xét là:
- Tìm từ chỉ hoạt động của: anh chiến sĩ, thiếu nhi.
- Tìm từ chỉ trạng thái của: dòng thác, lá cờ.
Sau đó tổ chức cho HS thảo luận nhóm 4 để hoàn thành bài tập vào phiếu.
Dựa vào kết quả bài tập, tôi liên tục hỏi các em xoay quanh hai nhóm từ đó là: từ chỉ hoạt động và từ chỉ trạng thái. 
Tuy ở lớp 2 và lớp 3 các em đã được học về từ chỉ hoạt động và từ chỉ trạng thái nhưng với thời lượng rất ít, đặc biệt là nhóm từ chỉ trạng thái, vì thế HS có em đã quên, có em không nắm vững bản chất nên chưa hiểu hết về “từ chỉ trạng thái”. Chính vì thế, làm rõ hai nhóm từ theo yêu cầu của bài tập 2 phần Nhận xét là điều rất cần thiết trước khi hình thành khái niệm về động từ.
 Dựa vào việc khai thác kĩ yêu cầu của bài tập nêu trên, HS tôi sẽ dễ dàng nêu được khái niệm về động từ: Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Bên cạnh đó tôi đặc biệt nhấn mạnh, lưu ý HS: 
- Động từ chỉ hoạt động nêu lên các hoạt động của người hoặc con vật, nếu là đồ vật thì phải được nhân hóa. Động từ chỉ trạng thái: là sự tồn tại của một vật (bản thân chúng không tạo nên hoạt động mà phải nhờ vào các yếu tố bên ngoài tác động).
Với cách tiến hành trên, HS sẽ nối tiếp nhau nêu ví dụ về từng nhóm động từ. Điều đó sẽ giúp HS được trải nghiệm và nhận ra rằng động từ rất gần gũi và tồn tại quanh ta.
2.3. Tính từ:
Khi cung cấp kiến thức về tính từ, cần giúp các em phân biệt rõ hai nhóm tính từ: Tính từ chỉ đặc điểm và tính từ chỉ tính chất của sự vật, của hoạt động, của trạng thái.
Khi dạy bài Tính từ (Tiếng Việt 4 – Tập 1 – Trang 110, 111, 112). Ở bài này, nội dung ghi nhớ là: Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, của hoạt động, của trạng thái,
Dựa vào ghi nhớ trên, tôi cụ thể hóa phương pháp dạy học thích hợp nhằm giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của cụm từ “tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái,”
Trong bài tập 2 phần Nhận xét: Sau khi HS hoàn thành bài tập, để giúp học sinh hiểu và chủ động rút ra khái niệm về tính từ, tôi nhấn mạnh:
Các từ dùng để miêu tả tính tình, tư chất của cậu bé Lu –i, màu sắc của sự vật, hình dáng, kích thước và các đặc điểm khác của sự vật gọi là tính từ. 
Từ đó, qua gợi ý HS sẽ phát hiện và nêu được: Tính từ là những từ dùng để miêu tả tính tình, tư chất của con người, màu sắc, hình dáng, kích thước và đặc điểm của sự vật (Hay: Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật)
Còn với bài tập 3: Trong cụm từ đi lại vẫn nhanh nhẹn, từ nhanh nhẹn bổ sung ý nghĩa cho từ nào?
Tôi gợi ý để HS rút ra các ý kiến sau:
- Từ nhanh nhẹn gợi tả dáng đi hoạt bát, nhanh trong bướ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giup_hoc_sinh_lop_4_xac_dinh_tot_phan_tu_loai.doc