SKKN Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 10

SKKN Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 10

Hiện nay, trong môi trường học đường không ít học sinh có lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình; vô tâm với các vấn đề diễn ra xung quanh mình. Tình trạng bạo lực học đường ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối của gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài ra một số tệ nạn xã hội đã xâm nhập, lan tỏa vào vào nhà trường như vi phạm pháp luật, quan hệ tình dục trước hôn nhân, nghiện game, chìm đắm trong thế giới ảo của mạng enternet như: Zalo, Facebook, Facebook Messengger, Periscoper, Mocha, Instagram, WhatsApp, Snapchat, Twitter Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân sâu xa nhất là do các em thiếu hụt một cách nghiêm trọng kỹ năng sống. Vì thế cho nên việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một việc vô cùng cần thiết, đặc biệt là đối với học sinh Trung học phổ thông (THPT). “Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống mà thực chất là một cách tiếp cận kỹ năng sống” [1].

Ở lứa tuổi Trung học phổ thông (THPT), các em đã đạt được sự phát triển nhất định về thể chất, nhân cách, trí tuệ, các năng lực sống ; vị thế xã hội của các em đã có nhiều thay đổi nên xuất hiện những nhu cầu về hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội; khả năng tự hiểu mình và tự khẳng định mình trong cuộc sống. Vì thế, các trường THPT cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp các em hình thành và phát triển khả năng làm chủ bản thân, đối phó với những sức ép của cuộc sống, sống có trách nhiệm với bản thân. Nếu học sinh được rèn luyện kỹ năng sống vững vàng sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống; có thái độ tích cực trong cách ứng xử, trong giải quyết các vấn đề xung quanh.

 

doc 18 trang thuychi01 5701
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Hiện nay, trong môi trường học đường không ít học sinh có lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình; vô tâm với các vấn đề diễn ra xung quanh mình. Tình trạng bạo lực học đường ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối của gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài ra một số tệ nạn xã hội đã xâm nhập, lan tỏa vào vào nhà trường như vi phạm pháp luật, quan hệ tình dục trước hôn nhân, nghiện game, chìm đắm trong thế giới ảo của mạng enternet như: Zalo, Facebook, Facebook Messengger, Periscoper, Mocha, Instagram, WhatsApp, Snapchat, Twitter Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân sâu xa nhất là do các em thiếu hụt một cách nghiêm trọng kỹ năng sống. Vì thế cho nên việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một việc vô cùng cần thiết, đặc biệt là đối với học sinh Trung học phổ thông (THPT). “Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống mà thực chất là một cách tiếp cận kỹ năng sống” [1]. 
Ở lứa tuổi Trung học phổ thông (THPT), các em đã đạt được sự phát triển nhất định về thể chất, nhân cách, trí tuệ, các năng lực sống; vị thế xã hội của các em đã có nhiều thay đổi nên xuất hiện những nhu cầu về hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội; khả năng tự hiểu mình và tự khẳng định mình trong cuộc sống. Vì thế, các trường THPT cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp các em hình thành và phát triển khả năng làm chủ bản thân, đối phó với những sức ép của cuộc sống, sống có trách nhiệm với bản thân. Nếu học sinh được rèn luyện kỹ năng sống vững vàng sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống; có thái độ tích cực trong cách ứng xử, trong giải quyết các vấn đề xung quanh.
Bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT có vai trò rất quan trọng trong mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện. Những kiến thức của bộ môn Giáo dục công dân “nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan, hệ thống các giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị và những phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [2]. Giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân không phải chỉ cần truyền thụ những kiến thức cơ bản như trong sách giáo khoa mà còn cần phải hướng dẫn các em vận dụng nó vào cuộc sống. Từ đó, giúp các em “có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào việc giải thích và giải quyết những vấn đề gần gũi, có tính phổ biến trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội cũng như khó khăn, vướng mắc của bản thân và gia đình; biết lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp trong các tình huống của cuộc sống; biết đánh giá đúng đắn các hành vi của bản thân và của những người xung quanh; biết tự điều chỉnh hành vi của mình và đấu tranh với các hành vi sai trái của người khác” [2]. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy cho thấy bộ môn Giáo dục công dân thường bị coi nhẹ trong nhà trường THPT, các em học với tinh thần “đối phó” là chủ yếu. Hơn nữa, các phạm trù triết học, đạo đức, pháp luật mang tính khái quát, trừu tượng cao. Nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên không có những phương pháp tích cực thì không thể giáo dục cho các em được những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Với những suy nghĩ như trên, là một giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân có bề dày hơn 10 năm công tác tại trường THPT Nguyễn Quán Nho, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 10” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi người cần có những phẩm chất của công dân toàn cầu. Trong đó kỹ năng sống là một năng lực không thể thiếu của người công dân trong thời đại mới. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT là một vấn đề vô cùng cấp thiết, vì thế sáng kiến kinh nghiệm của tôi đề xuất giáo dục một số kỹ năng sống cơ bản nhằm trang bị cho các em những kỹ năng cần thiết để thích ứng với mọi thử thách của cuộc sống, góp phần xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn.
- Đồng thời tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống với các đồng nghiệp nói chung và đồng môn nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Giáo dục công dân trong trường THPT hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu. 
	- Các kỹ năng sống cơ bản theo quan niệm của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF).
	- Thực trạng thực hiện kỹ năng sống của học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho nói chung và của học sinh các lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy: 12C4, 12C5, 12C7; 11B1, 11B4, 11B5; 10A2, 10A4, 10A5, 10A6 năm học 2017 – 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu. 
	- Phương pháp luận của sáng kiến kinh nghiệm là các nguyên tắc, phương pháp luận của Triết học Mác - Lê-nin như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc thống nhất giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, sự kết hợp giữa cái phổ biến và cái đặc thù.
	- Phương pháp cụ thể được sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm là các phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa; điều tra – quan sát, thực nghiệm sư phạm, tổng kết thực tiễn.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT hiện nay.
2.1.1. Các quan niệm về kỹ năng sống.
	Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi một quan niệm cũng dựa trên những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của sáng kiến này tôi xin trình bày 3 quan niệm về kỹ năng sống của 3 tổ chức lớn trên thế giới sau đây:
	- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng rất thiết thực mà con người cần để có một cuộc sống an toàn, lành mạnh. Theo đó, có thể hiểu kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và các kỹ năng về giao tiếp được vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày để giao tiếp và tương tác với người khác.
	- Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách con người ta tiếp cận với các tình huống trong cuộc sống để thay đổi hoặc hình thành những hành vi, thái độ mới phù hợp. Theo cách hiểu này thì kỹ năng sống là sự cân bằng giữa việc tiếp thu kiến thức với việc hình thành thái độ và kỹ năng.
	- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), kỹ năng sống là toàn bộ những năng lực cá nhân được vận dụng để thực hiện đầy đủ các chức năng của con người và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.
	Như vậy, có thể thấy, dù các quan niệm về kỹ năng sống có khác nhau nhưng đều có những điểm tương đồng. Khái quát lại, có thể hiểu kỹ năng sống là cách thức nhằm giúp con người vận dụng kiến thức tiếp thu được vào trong thực tế cuộc sống với thái độ và hành vi tích cực đem lại hiệu quả cao. “Kỹ năng sống vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính chất xã hội. Kỹ năng sống mang tính chất cá nhân vì đó là năng lực của cá nhân. Kỹ năng sống còn mang tính xã hội vì trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có những kỹ năng sống thích hợp” [3].
2.1.2. Vai trò, tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
	“Cuộc đời một hành trình mà bằng cấp chuyên môn giống như một bệ phóng, còn kỹ năng sống chính là động lực thúc đẩy con người vươn lên tầm cao thành đạt” [4].
	Trong quá trình hội nhập của đất nước ta, vấn đề giáo dục kỹ năng sống là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Nhất là trước tình trạng một bộ phận giới trẻ hiện nay đang vi phạm một cách nghiêm trọng đạo đức, có lối sống buông thả, coi trọng đồng tiền, coi trọng thế giới ảo, coi thường nhân cách của mình và của người khác. Chính vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một phần không thể thiếu của chương trình, mục tiêu giáo dục trong thời đại mới. 
	Đối với học sinh THPT – lứa tuổi thanh niên – là giai đoạn phát triển phức tạp nhất. Bởi vì, giai đoạn này các em có nhiều biến đổi lớn về cả tâm lý lẫn sinh lý. Nhà trường cần phải tạo cho các em những điều kiện vật chất – tinh thần thuận lợi để các em có thể học tập và phát triển mạnh mẽ nhất. Ở lứa tuổi này, các em tự coi mình đã là người lớn nhưng thực chất các em lại chưa phải là người lớn. Có thể nói các em có một hình hài người lớn nhưng tâm lý đôi khi vẫn còn rất trẻ con. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho các em giai đoạn này có ý nghĩa vô cùng thiết thực, góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em và đặt một nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo sau này. 	
2.2. Thực trạng dạy – học kỹ năng sống thông qua môn Giáo dục công dân ở trường THPT Nguyễn Quán Nho hiện nay.
2.2.1. Thực trạng giảng dạy kỹ năng sống thông qua môn giáo dục công dân ở trường THPT Nguyễn Quán Nho hiện nay.
	Trong thời gian gần đây, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã trở thành vấn đề cần thiết. Từ năm học 2011-2012, Bộ giáo dục đào tạo đã đưa nội dung giáo dục tích hợp kỹ năng sống vào các bộ môn trong chương trình giáo dục. Giáo dục kỹ năng sống cũng là một xu thế chung của giáo dục Việt Nam nói riêng và các nền giáo dục trên thế giới nói chung. Thực tế cho thấy, người có kỹ năng sống sẽ có lập trường kiên định, vững vàng; có năng lực, phẩm chất tiến bộ, dễ dàng vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống, tiếp nhận, xử lý các tình huống một cách tích cực, linh hoạt. Họ làm chủ được bản thân và sống có trách nhiệm, có mục đích. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bi quan, lập trường không vững vàng, khó làm chủ bản thân, dễ vấp ngã, thất bại trong cuộc sống.
Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em đã đạt được sự phát triển nhất định về thể chất và trí tuệ. Các em tiếp thu cái mới rất nhanh nhưng cũng dễ chủ quan, nông nổi, ảo tưởng về sức mạnh của bản thân. Từ đó dẫn đến một số em vi phạm nghiêm trọng các giá trị đạo đức của xã hội: vô lễ với thầy cô giáo, với người lớn, coi thường bạn bè, ích kỷ, đề cao cái tôi cá nhân, thiếu ý thức bảo vệ môi trường
Giáo dục Công dân là một môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Giáo dục Công dân không chỉ có chức năng giáo dục thế giới quan, phương pháp luận khoa học; giáo dục đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn cung cấp một hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức của dân tộc và nhân loại; giúp cho học sinh phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất [5].
Bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT Nguyễn Quán Nho do tôi và thầy Trịnh Hữu Phúc giảng dạy. Hai chúng tôi luôn tích cực dự giờ, trao đổi chuyên môn sau các giờ lên lớp để kịp thời nắm bắt tâm tư, tình cảm và mức độ nhận thức, vận dụng bài học của các em học sinh. Từ đó chúng tôi luôn trau dồi kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy để quá trình dạy học đạt kết quả tốt nhất.
2.2.2. Thực trạng học tập và thực hiện kỹ năng sống của học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho.
	Trong hệ thống kiến thức Giáo dục Công dân Trung học phổ thông thì những nội dung về đạo đức là những nội dung tạo được hứng thú học tập nhất cho học sinh. Nếu các nội dung về Triết học, Pháp luật, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị có nhiều khái niệm, nguyên lý, quy luật, lý thuyết mang tính hàn lâm, khái quát, trừu tượng nên rất khó để học sinh tiếp thu thì các nội dung về đạo đức lại rất gần gũi, quen thuộc với học sinh. Các em vừa thích thú, háo hức khi khám phá về bản thân, về các mối quan hệ xung quanh. Cũng có lúc các em xấu hổ, ngượng ngịu vì nhận ra những suy nghĩ, hành động mà mình cho là đúng thì đạo đức xã hội lại cho rằng chưa đúng, cần phải sữa chữa, khắc phục [5].
Trường THPT Nguyễn Quán Nho đóng trên địa bàn xã Thiệu Quang, xung quanh đều là các xã thuần nông cho nên học sinh ở đây đa số là con em của gia đình nông dân và lao động tự do. Ngày nay, việc trồng lúa và các cây lương thực khác không đem lại lợi nhuận cao nên phụ huynh thường đi kiếm việc làm ở các công ty hoặc ở các thành phố lớn. Vì mải mê kiếm tiền trang trải cuộc sống, nhiều phụ huynh không có đủ thời gian để quan tâm đến con em mình. Thậm chí, có phụ huynh đi làm ăn xa cả năm chỉ về có vài ngày tết; một số phụ huynh làm công ty gần nhà nhưng hầu như ngày nào cũng tăng ca đến đêm mới về, sáng ra lại đi làm từ rất sớm. Điều đó đã khiến cho việc giáo dục kỹ năng sống cho các em từ phía gia đình hầu như không đạt được hiệu quả như mong đợi.
Trường THPT Nguyễn Quán Nho đóng trên địa bàn xã Thiệu Quang.
Từ thực trạng giáo dục kỹ năng sống như trên, Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn Quán Nho và tập thể giáo viên nhà trường đã không ngừng suy nghĩ, trăn trở để tìm ra các phương pháp giáo dục và thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của mình.
2.3. Các kỹ năng sống đã vận dụng để giáo dục cho học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho.
2.3.1. Giáo dục kỹ năng học và tự học.
	Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta, Đảng và Nhà nước rất chú trọng đến yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm chuẩn bị một thế hệ công dân có trí tuệ và tài năng, tạo nên sức mạnh của dân tộc để đi vào thời đại khoa học – công nghệ, thông tin – điện tử, hội nhập và toàn cầu hóa. Vì thế cho nên, học tập là việc vô cùng quan trọng và cần thiết đối với mỗi con người, mỗi gia đình và đối với toàn xã hội. Ngày nay, hơn bao giờ hết, học tập càng có ý nghĩa lớn lao khi thế giới đã và đang đổi thay nhanh chóng. Có học tập thì chúng ta mới mở rộng tầm nhìn, mở mang kiến thức, mới có tri thức để làm chủ cuộc đời mình và là công dân có ích của đất nước đang đi vào kỷ nguyên văn minh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa [6].
	Để đạt được hiệu quả cao trong học tập, các em học sinh cần phải rèn luyện kỹ năng học và tự học, cần phải lên kế hoạch, đề ra mục tiêu cụ thể và phương pháp để thực hiện mục tiêu ấy. Thông qua giảng dạy bài 16 “Tự hoàn thiện bản thân” – GDCD 10 – tôi đã tích hợp giáo dục cho các em kỹ năng học và tự học theo các bước như sau:
- Xác định mục tiêu: 
Để việc học đạt hiệu quả và kết quả cao nhất các em học sinh cần phải xác định được mục tiêu rõ ràng. Việc xác định trước mục tiêu trong học tập sẽ giúp các em có nhận thức đúng đắn về bản thân mình, có động lực để hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Từ đó, các em xác định được cụ thể khối lượng kiến thức mà mình cần tiếp thu trong thời gian nhất định. Ví dụ như, các em sẽ học cái gì, vào thời gian nào, phương pháp ra sao? Bên cạnh đó, các em cũng cần phải luôn luôn kiểm tra quá trình thực hiện mục tiêu mà mình đã đặt ra, cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được để có những phương pháp thực hiện thích hợp và có căn cứ xác định những mục tiêu tiếp theo.
- Xác định phương pháp thực hiện: 
Một trong các phương pháp học và tự học có hiệu quả là kỹ năng đọc và ghi chép. Không phải là ghi chép bất cứ thứ gì mình đọc được mà phải biết chọn lọc các nội dung, kiến thức cốt lõi, cần thiết phải ghi nhớ. Bên cạnh đó các em cũng có thể lên mạng tìm kiếm các thông tin mình cần hoặc cập nhật tin tức thời sự hằng ngày về các vấn đề mà mình quan tâm. Trong quá trình thực hiện các em cần đánh giá phương pháp mà mình đang thực hiện đã phù hợp hay chưa để từ đó bổ sung, hoàn thiện kỹ năng học và tự học của mình.
- Rèn luyện tính tự giác và tính kỷ luật: Quá trình học tập chỉ đạt kết quả cao khi các em tự giác thực hiện nhiệm vụ của mình. Đừng để bố mẹ, thầy cô phải nhắc nhở, yêu cầu hoặc khi bị nhắc nhở, phê bình rồi mới thực hiện. Cũng không nên vừa học vừa làm việc riêng, bởi vì như thế sẽ không tập trung toàn bộ tâm trí vào việc học được. Điều đó vừa làm cho việc học không mang lại hiệu quả cao mà còn làm cho các em không có ý thức kỷ luật trong việc học và trong cuộc sống.
Kỹ năng tự học của học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Quán Nho.
Một buổi tham quan học tập tại trường Đại học Công nghiệpThành phố Hồ Chí (cơ sở tại Thanh Hóa) thể hiện kỹ năng xác định mục tiêu học tập của học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống.
	Con người ai cũng sống và làm việc trong những cộng đồng nhất định. Vì thế cho nên mỗi người cần rèn luyện cho mình kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cộng đồng. Thông qua giảng dạy bài 13 “Công dân với cộng đồng” – GDCD 10 – tôi đã tích hợp giáo dục cho học sinh kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống. Không phải ai cũng dễ dàng thích nghi với môi trường mới, cuộc sống mới. Thậm chí có những người dù đã học tập, công tác khá lâu trong cộng đồng vẫn khó hòa nhập được với những người xung quanh. Vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, các em học sinh cần rèn luyện cho mình kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, trước hết là để thích ứng, hòa nhập với lớp học, trường học, sau đó là dễ dàng thích ứng, hòa nhập với môi trường sống sau này. Các em cần rèn luyện kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống theo các bước sau đây:
- Xây dựng kỹ năng lắng nghe tích cực:
 Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống. Người biết lắng nghe tích cực là người biết lắng nghe ý kiến của người khác, biết cho ý kiến phản hồi cùng với sự kết hợp những dấu hiệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ) để cho người nói và mọi người xung quanh biết được mình thực sự chú ý đến vấn đề mà người nói đang trình bày. Trong cuộc sống cộng đồng, để có thể thích ứng và hòa nhập thì mỗi con người trước hết cần xây dựng cho mình kỹ năng lắng nghe tích cực. Từ đó có thể giao tiếp với cộng đồng một cách có hiệu quả nhất.
	- Xây dựng kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định: 
“Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình huống, những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn đưa ra quyết định hành động” [1]. Giáo dục của Việt Nam ta còn ảnh hưởng nhiều của phương pháp giáo dục truyền thống, người học thường thụ động, chờ đợi sự giúp đỡ của người khác nên dẫn đến trong cuộc sống thường hay thiếu tự tin, thiếu quyết đoán khi các trường hợp khó khăn xảy ra. Vì thế, để đạt hiệu quả cao trong học tập, các em học sinh cần vận dụng kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định trong các hoạt động học tập của mình. 
Một buổi lao động bảo vệ môi trường, cảnh quan trường học của học sinh lớp 10A5 trường THPT Nguyễn Quán Nho thể hiện kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng xác định giá trị của bản thân.
	Mỗi người đều có những điểm mạnh, đểm yếu riêng. Vì thế trong cuộc sống con người cần tự nhận thức đúng về bản thân. Từ đó xác định được giá trị của mình để lựa chọn môi trường sống, cách xử sự trong giao tiếp cho phù hợp giúp phát huy được các giá trị tốt đẹp của bản thân mình.
	Giá trị của bản thân hay giá trị của con người là những điều quan trọng, có ý nghĩa định hướng cho mọi hoạt động, suy nghĩ trong cuộc sống của họ. Các giá trị cơ bản của bản thân như: lương tâm, danh dự, nhân phẩm, hạnh phúc, tình yêu là những nội dung các bài học của phần “Công dân với đạo đức” trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 10. Thông qua giảng dạy kiến thức các bài đó, tôi đã lồng ghép giáo dục kỹ năng sống xác định giá trị bản thân cho các em học sinh. Dưới đây là một số phương pháp rèn luyện mà tôi đã hướng dẫn cho các em:
- Tự nhận thức về bản thân:
Tự nhận thức về bản thân là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người. Có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân; mới giao tiếp, ứng xử phù hợp với người khác. Đánh giá quá cao hoặc quá thấp về bản thân đều có thể dẫn con người đến những sai lầm, thất bại trong cuộc sống. Tự nhận thức đúng về bản thân không phải là điều dễ dàng, mà cần phải qua rèn luyện [7].
	Giá trị của bản thân là do chính mình xác định chứ không phải do người khác đánh giá. Vì thế các em cần tự tin, mạnh dạn tự nhận thức đúng về bản thân mình, từ đó xác định được niềm tin, suy nghĩ của bản thân để biến thành thái độ trong cuộc sống.
Màn “Chào hỏi” của Chi đoàn 12C4 trong Hội thi “Khi tôi 18” của trườn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_mot_so_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_thpt_thong_qu.doc
  • docBÌA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.doc
  • docDANH MỤC skkn đã xếp loại.doc
  • docDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.doc
  • docMỤC LỤC.doc