SKKN Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4 ở trường Tiểu học Hà Phong
Thực hiện quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học. Đây là một chủ trương đúng đắn và cần thiết được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm. Bởi vì, Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới - Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và con người được đặt ở trung tâm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó lớp thiếu niên nhi đồng hôm nay sẽ là những công dân, những người chủ tương lai của đất nước. Hơn nữa đứng trước nhu cầu và sự phát triển đa dạng và phong phú của lớp trẻ hôm nay, đặc biệt là trước sự bùng nổ về công nghệ thông tin trong xã hội khiến con người đễ bị các luồng thông tin thiếu lành mạnh lôi cuốn, nhất là lứa tuổi thiếu niên nhi đồng nếu như không được giáo dục và định hướng rõ ràng.
Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của một số học sinh.
Như chúng ta đã biết, dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ cả 4 kỹ năng nói trên. Nó là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân môn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đối với học sinh lớp 4 thì đây là một phân môn khó, bởi ở lứa tuổi của các em thì vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của học sinh, gia đình không có điều kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng đặc biệt là rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn này? Là một cán bộ quản lý nhà trường tôi luôn luôn trăn trở về vấn đề này. Trên thực tế, việc quản lý ở trường Tiểu học Hà Phong trong những năm qua đã có những chuyển biến đáng kể, song hiệu quả chưa cao, còn nhiều tồn tại, hạn chế. Xuất phát từ lý do trên, là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn tôi thấy cần có những đổi mới trong công tác quản lý chỉ đạo việc “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4 ở trường Tiểu học Hà Phong” để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thực hiện quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học. Đây là một chủ trương đúng đắn và cần thiết được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm. Bởi vì, Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới - Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và con người được đặt ở trung tâm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó lớp thiếu niên nhi đồng hôm nay sẽ là những công dân, những người chủ tương lai của đất nước. Hơn nữa đứng trước nhu cầu và sự phát triển đa dạng và phong phú của lớp trẻ hôm nay, đặc biệt là trước sự bùng nổ về công nghệ thông tin trong xã hội khiến con người đễ bị các luồng thông tin thiếu lành mạnh lôi cuốn, nhất là lứa tuổi thiếu niên nhi đồng nếu như không được giáo dục và định hướng rõ ràng. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của một số học sinh. Như chúng ta đã biết, dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ cả 4 kỹ năng nói trên. Nó là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân môn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đối với học sinh lớp 4 thì đây là một phân môn khó, bởi ở lứa tuổi của các em thì vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của học sinh, gia đình không có điều kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng đặc biệt là rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn này? Là một cán bộ quản lý nhà trường tôi luôn luôn trăn trở về vấn đề này. Trên thực tế, việc quản lý ở trường Tiểu học Hà Phong trong những năm qua đã có những chuyển biến đáng kể, song hiệu quả chưa cao, còn nhiều tồn tại, hạn chế. Xuất phát từ lý do trên, là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn tôi thấy cần có những đổi mới trong công tác quản lý chỉ đạo việc “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4 ở trường Tiểu học Hà Phong” để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu về hình thức giáo dục hình thành kỹ năng sống cho học sinh thông qua lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phân môn Tập làm văn. Khảo sát thực trạng việc tổ chức dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của giáo viên và học sinh khối 4 qua phân môn Tập làm văn. Qua kết quả nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình hình thành kỹ năng sống cho học sinh. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống qua việc lồng ghép trong giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và nâng cao hiệu quả của việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Hà Phong nói riêng. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Đề tài hướng vào nghiên cứu đặc điểm các bài dạy có nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong phân môn Tập làm văn lớp 4 và thực tế dạy học phân môn Tập làm văn lớp 4. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Phương pháp điều tra Phương pháp thống kê Phương pháp phỏng vấn Phương pháp phân tích tổng hợp (Phân tích nguyên nhân, tổng hợp kết quả) Phương pháp so sánh (So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài) PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Có thể nói, kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Nội dung giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh tiểu học: Tiếp tục rèn luyện những kỹ năng đã được học ở mầm non, tập trung hình thành cho HS kỹ năng giao tiếp với cha mẹ, thầy cô, bạn bè; kỹ năng xây dựng tình bạn đẹp; kỹ năng kiên trì trong học tập; kỹ năng đúng giờ và làm việc theo yêu cầu, kỹ năng đồng cảm,... tạo tiền đề cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất, học vấn và năng lực của HS (công văn số 463/BGDĐT- GDTX ngày 28 tháng 01 năm 2015 về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên). Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng từ đặt câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều mặt (từ hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức...) có liên quan đến đề bài. Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn là phát triển năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm văn) ta sẽ thấy được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về cuộc sống của học sinh. Vậy, làm thế nào để chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn? tôi nghĩ có nhiều phương pháp, nhiều cách thức để thực hiện việc này. Nhưng trong bài viết này, tôi xin đưa ra “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4 ở trường Tiểu học Hà Phong" để góp một phần nhỏ vào việc thực hiện nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1.Thực trạng 1.1. Chương trình giáo dục kỹ năng sống Chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học được Bộ giáo dục Đào tạo triển khai vào năm học 2010 - 2011. Đây là môn học mở, tùy điều kiện từng trường để áp dụng linh hoạt, vì không quy định tiết học, giờ học cụ thể nên tùy thuộc vào điều kiện, năng lực giáo viên. Trong chương trình dạy kỹ năng sống, không có khái niệm “vâng lời” chỉ có khái niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục đích “rèn nếp” hay “nghe lời”. Môn Tiếng Việt có thuận lợi hơn cả vì bản thân nội dung bài học đã buộc học sinh phải vận dụng rất nhiều kỹ năng: tư duy sáng tạo, xúc cảm, trình bày suy nghĩ, vấn đáp, giải quyết vấn đề 1.2.Về giáo viên Những năm gần đây, nhà trường đã chú trọng chỉ đạo việc giáo dục kỹ năng sống thông qua lồng ghép các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đa số giáo viên của nhà trường đã thực sự có “tâm” khi dạy kỹ năng sống cho học sinh vì dạy kỹ năng sống chủ yếu là phụ thuộc vào cái tâm của giáo viên. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn không ít giáo viên than khổ vì phải thêm việc do từ trước đến nay chỉ chú trọng dạy kiến thức, hết giờ ở lớp thì về, còn việc dạy đạo đức, kỹ năng sống được xem là của môn học khác. Cũng có quan niệm dạy kỹ năng sống là phải đi dã ngoại, đi xa nên nếu trường hoặc phụ huynh có kinh phí tổ chức thì đi, không thì thôi. Nội dung các bài học đã nhiều, thời lượng lại ít nên khó lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào. Ngoài ra, đội ngũ giáo viên cũng chưa được đào tạo cơ bản để dạy về kỹ năng sống. 1.3.Về học sinh Ở lứa tuổi tiểu học, học sinh đang phát triển về hệ xương, hệ thần kinh, học sinh có những nhận biết nhất định về xung quanh, biết đánh giá nhận xét sự việc xảy ra quanh mình. Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hóa. Về tình cảm, các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Các em dễ xúc động và bắt đầu biết ước mơ, tưởng tượng phong phú. Có khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Tuy nhiên ở từng địa phương khác nhau, yêu cầu về kỹ năng sống cúng khác nhau. Trường Tiểu học Hà Phong với đặc điểm là trường ven Thị Trấn, đời sống của nhân dân những năm gần đây đã có nhiều khởi sắc, việc tiếp cận với xu thế hiện đại hoặc môi trường xã hội tiên tiến khá thuận lợi. Tuy nhiên, trường gần chợ Lèn và quốc lộ 1A là nơi các quán Game mọc nhiều và là nơi các con nghiện tụ tập tiêm chích, mua bán ma túy. Chính vì thế trường là nơi các tai tệ nạn xã hội lăm le xâm nhập. 2. Kết quả của thực trạng trên Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao. Qua thực tế làm công tác quản lý ở trường tiểu học Hà Phong, bản thân thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế. Qua tiến hành khảo sát (lần 1) ở lớp 4A (tháng 2 năm 2015) với chủ đề “Kĩ năng của em” Đề bài: Em có nguyện vọng học thêm một môn năng khiếu (nhạc, họa, võ thuật). Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị) hiểu và ủng hộ nguyện vọng của em. Hãy cùng bạn đóng vai em và anh (chị) để thực hiện cuộc trao đổi. - Kỹ năng nhận thức: Tổng số học sinh Xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, xây dựng kế hoạch, tư duy tích cực và sáng tạo. Chưa biết điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, chưa biết cách khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu. SL % SL % 28 9 32,1 19 67,9 - Kỹ năng xã hội: Tổng số học sinh Có kỹ năng vận động và gây ảnh hưởng, giao tiếp, ứng xử, xưng hô đúng mực, thuyết trình trước đám đông tốt. Đôi lúc giao tiếp, ứng xử, xưng hô chưa đúng mực. Chưa dám thuyết trình trước đám đông. SL % SL % 28 10 35,7 18 64,3 - Kỹ năng quản lý bản thân: Tổng số học sinh Biết làm chủ cảm xúc, quản lý thời gian phù hợp. Chưa làm chủ được cảm xúc còn lo lắng, sợ hãi, chưa biết quản lý thời gian. SL % SL % 28 11 39,3 17 60,7 Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi nghiên cứu. Tôi đã thử nghiệm chọn một số kỹ năng cần thiết nhất để chỉ đạo giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4 và kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tôi nhận thấy kỹ năng của học sinh tốt lên một cách rõ rệt. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả. 3. Nguyên nhân Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy sét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đạiQua nhiều năm thực tế làm công tác quản lý ở trường, bản thân nhận thấy kĩ năng sống học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau: Sự hướng dẫn của thầy cô giáo, nhà trường về kỹ năng sống cho học sinh chưa thật sự cụ thể, dễ hiểu. Giáo viên chưa chuẩn bị chu đáo để hướng dẫn học sinh thực hành rèn kỹ năng sống. Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh. Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế. Rèn kĩ năng sống qua các tiết học, các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa sâu sát. Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít, chưa kịp thời. Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống cơ bản chưa nhiều. Học sinh thiếu sự quan tâm, ít trau dồi về kỹ năng sống. Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong ứng xử với tình huống thực của cuộc sống. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của phân môn Tập làm văn và nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phân môn Tập làm văn. Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã yêu cầu giáo viên nêu mục tiêu của các môn học ở tiểu học, nội dung của việc rèn kỹ năng sống thông qua các tiết thao giảng Ví dụ : Mục tiêu của phân môn Tập làm văn ở trường tiểu học nhằm : Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tập làm văn, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” Ví dụ một số nội dung giáo dục kỹ năng sống trong phân môn Tập làm văn lớp 4: Tuần Tên bài dạy Các kỹ năng sống cần đạt 2 Tả ngoại hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện - Tìm kiếm và xử lý thông tin - Tư duy sáng tạo 3 Viết thư - Giao tiếp ứng xử lịch sự trong giao tiếp - Tìm kiếm và xử lý thông tin - Tư duy sáng tạo 7 Luyện tập phát triển câu chuyện - Tư duy sáng tạo, phân tích, phán đoán - Thể hiện sự tự tin - Hợp tác 8 Luyện tập phát triển câu chuyện - Tư duy sáng tạo, phân tích, phán đoán - Thể hiện sự tự tin - Xác định giá trị 9 Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân - Thể hiện sự tự tin - Lắng nghe tích cực - Thương lượng - Đặt mục tiêu, kiên định 11 Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân - Thể hiện sự tự tin - Lắng nghe tích cực - Giao tiếp - Thể hiện sự cảm thông 15 Quan sát đồ vật - Quan sát tỉ mỉ, so sánh, tưởng tưởng - Tư duy sáng tạo, thể hiện cảm xúc 16 Luyện tập giới thiệu địa phương - Tìm kiếm và xử lý thông tin - Thể hiện sự tự tin - Giao tiếp 20 Luyện tập giới thiệu địa phương - Thu thập, xử lý thông tin (về địa phương cần giới thiệu) - Thể hiện sự tự tin - Lắng nghe tích cực, cảm nhận, chia sẻ, bình luận (về bài giới thiệu) 22 Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối - Quan sát tỉ mỉ, so sánh, tưởng tưởng - Tư duy sáng tạo, thể hiện cảm xúc 26 Luyện tập miêu tả cây cối Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối 30 Luyện tập quan sát con vật - Quan sát tỉ mỉ, so sánh, tưởng tưởng - Tư duy sáng tạo, thể hiện cảm xúc Điền vào giấy tờ in sẵn - Thu thập, xử lý thông tin - Đảm nhận trách nhiệm công dân 33 Điền vào giấy tờ in sẵn - Thu thập, xử lý thông tin - Đảm nhận trách nhiệm công dân 34 Điền vào giấy tờ in sẵn - Thu thập, xử lý thông tin - Đảm nhận trách nhiệm công dân 2. Những việc cần chuẩn bị để đạt được mục tiêu của phân môn học và nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phân môn học. Tôi đã chỉ đạo giáo viên chọn những kỹ năng cần thiết phù hợp địa phương: Chọn những kỹ năng phù hợp, gần gũi học sinh. Các em có khả năng trực tiếp thực hành kỹ năng sau khi tiếp cận. Ví dụ: Thực hành kỹ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực trong giao tiếp với bạn. Học sinh dự đoán các kỹ năng, yêu cầu của các kỹ năng cần đạt được sau khi học từng tiết Tập làm văn: Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh. Học sinh đọc nội dung bài học, yêu cầu bài học. Gợi ý học sinh nêu các kỹ năng thông qua bài học: Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kỹ năng sau khi đọc trước bài học. Hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu cần đạt sau bài học, từ đó xác định các kỹ năng cần đạt. Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kỹ năng cần đạt. Giáo viên chuẩn bị một giáo án lồng ghép thật cẩn thận (có nêu ra cụ thể các kỹ năng học sinh cần đạt sau khi học bài này; các kỹ thuật dạy học sử dụng trong bài dạy; các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy) Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kỹ năng sống cần đạt. Ví dụ: Bài yêu cầu gì? Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó? Trọng tâm bài ở chỗ nào? Em cần có kỹ năng gì để thực hiện các vấn đề đó? Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì? Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp trường hợp trong bài? 2. Tổ chức cho học sinh thực hành kỹ năng sống vừa học được. Trong chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4, có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp, giáo viên chỉ gợi mở sau đó cho các em nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, tóm tắt tin tức,hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo vi
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_thong_qua_phan_mon_t.doc