SKKN Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở Trường Tiểu học Nga Thái – Nga Sơn – Thanh Hóa
Hiện nay nhiều học sinh thành tích học tập rất tốt, nhưng kỹ năng sống rất thấp, điều đó được thể hiện: trong giao tiếp, hợp tác khi làm việc nhóm, sống ích kỷ, vô tâm, không biết làm việc nhà. Không biết một số loại rau ăn hằng ngày cách trồng, hái và chăm sóc như thế nào? Không biết một số cây trồng xung quanh nhà là cây gì?.Những vấn đề đó đang là cản trở lớn cho sự phát triển và hình thành nhân cách của một bộ phận thanh, thiếu niên và nhi đồng, khiến cho không ít các bậc cha mẹ phải phiền lòng vì con, đặc biệt trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay.
Nhiều bậc phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông. Các em không biết cách xử lý tình huống dù các tình huống rất đơn giản, lo sợ rụt rè khi tiếp xúc với người lạ, cộng đồng, xã hội. Trong thời gian qua vì thiếu kĩ năng sống nên học sinh của chúng ta đã trở thành những nạn nhân của tệ nạn xã hội, nạn nhân của ô nhiễm môi trường, trở thành những đứa con hư, nhiều em mất mạng vì ở vùng sông nước lại bị chết đuối do không biết bơi .Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa bao giờ được đặt ra cấp thiết như những năm gần đây. Không chỉ trẻ em, mà cả người trưởng thành cũng cần có những kĩ năng sống thiết yếu. Việc học kĩ năng sống không bao giờ là muộn và phải được học suốt đời, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Bậc tiểu học là bậc học tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một bộ phận quan trọng của chương trình giáo dục nhà trường. Hoạt động ngoài giờ lên lớp nối tiếp hoạt động dạy học các môn học; là con đường quan trọng để gắn học với hành, lí thuyết với thực tiễn, nhà trường với xã hội. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là con đường có hiệu quả để hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực, kĩ năng sống quan trọng, rèn luyện thể chất, giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Tuy nhiên, nhiều giáo viên chưa tâm huyết và đầu tư thời gian, công sức cho hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chưa thực sự tạo điều kiện cho các em được: " học mà chơi, chơi mà học".
I/ MỞ ĐẦU: 1.1. Lí do chọn đề tài : Hiện nay nhiều học sinh thành tích học tập rất tốt, nhưng kỹ năng sống rất thấp, điều đó được thể hiện: trong giao tiếp, hợp tác khi làm việc nhóm, sống ích kỷ, vô tâm, không biết làm việc nhà. Không biết một số loại rau ăn hằng ngày cách trồng, hái và chăm sóc như thế nào? Không biết một số cây trồng xung quanh nhà là cây gì?...Những vấn đề đó đang là cản trở lớn cho sự phát triển và hình thành nhân cách của một bộ phận thanh, thiếu niên và nhi đồng, khiến cho không ít các bậc cha mẹ phải phiền lòng vì con, đặc biệt trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay. Nhiều bậc phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông. Các em không biết cách xử lý tình huống dù các tình huống rất đơn giản, lo sợ rụt rè khi tiếp xúc với người lạ, cộng đồng, xã hội. Trong thời gian qua vì thiếu kĩ năng sống nên học sinh của chúng ta đã trở thành những nạn nhân của tệ nạn xã hội, nạn nhân của ô nhiễm môi trường, trở thành những đứa con hư, nhiều em mất mạng vì ở vùng sông nước lại bị chết đuối do không biết bơi ...Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa bao giờ được đặt ra cấp thiết như những năm gần đây. Không chỉ trẻ em, mà cả người trưởng thành cũng cần có những kĩ năng sống thiết yếu. Việc học kĩ năng sống không bao giờ là muộn và phải được học suốt đời, dưới nhiều hình thức khác nhau. Bậc tiểu học là bậc học tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một bộ phận quan trọng của chương trình giáo dục nhà trường. Hoạt động ngoài giờ lên lớp nối tiếp hoạt động dạy học các môn học; là con đường quan trọng để gắn học với hành, lí thuyết với thực tiễn, nhà trường với xã hội. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là con đường có hiệu quả để hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực, kĩ năng sống quan trọng, rèn luyện thể chất, giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Tuy nhiên, nhiều giáo viên chưa tâm huyết và đầu tư thời gian, công sức cho hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chưa thực sự tạo điều kiện cho các em được: " học mà chơi, chơi mà học". Chính vì vậy mà thông tư 30 của BGD- ĐT ban hành đã thay đổi cách đánh giá học sinh Tiểu học nhằm giảm áp lực học hành cho các em. Tạo cho các em học kiến thức không nặng nề, có thời gian để giáo viên tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, bổ ích cho các em, giáo dục cho các em nhiều kỹ năng sống cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu trường Tiểu học Nga Thái , trong năm học 2018 – 2019 tôi đã nghiên cứu, đầu tư thiết kế và tổ chức các hoạt động nhằm: " Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở Trường Tiểu học Nga Thái –Nga Sơn –Thanh Hóa". Học sinh rất phấn khởi hứng thú khi tham gia hoạt động ngoài giờ lên lớp. Kết thúc năm học tôi thu được kết quả hết sức bất ngờ từ phía học sinh. Học sinh bạo dạn, tự tin, nhanh nhẹn hơn. Các em tiếp thu kiến thức các môn học tốt hơn. 1.2.Mục đích nghiên cứu : Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một hoạt động quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Chính từ những hoạt động như: lao động, sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội đã góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Giúp các em biết tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình. Có thể nói việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là xây dựng cho các em các mối quan hệ phong phú, đa dạng, một cách có mục đích, có kế hoạch có nội dung và phương pháp nhất định, gắn giáo dục với cộng đồng, tạo sự thân thiện trong mọi tình huống. Biến các nhu cầu khách quan của xã hội thành những nhu cầu của bản thân học sinh. Thông qua việc tham gia các hoạt động mà giáo dục kỹ năng sống cần thiết cho trẻ, giúp trẻ biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày và có cuộc sống bình thường trong một xã hội hiện đại. Thực hiện được triết lý giáo dục: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. 1.3. Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Nga Thái 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu, tham khảo tài liệu SGK, SGV,tài liệu giáo dục kỹ năng sống do Bộ Giáo dục Đào tạo phát hành có liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Phương pháp quan sát thông qua dự giờ. - Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm, phân tích tổng hợp rút ra phương pháp mới. - Phương pháp trắc nghiệm : Kiểm tra kết quả cuối cùng của tiết dạy. - Phương phát đàm thoại : Trò chuyện với đồng nghiệp,với học sinh. II/ NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là việc tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện; giúp học sinh có thể sống an toàn, khỏe mạnh và tích cực, chủ động trong cuộc sống hằng ngày. * Kỹ năng sống là gì? Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao. - Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của giáo dục: Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm; Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..; Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin; Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông; - Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc sống hằng ngày. Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống. - Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được thể hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến những hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh. Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả Nói cách khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. Kỹ năng sống mang tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Mặt khác kỹ năng sống có tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợp với những kỹ năng sống ấy. Ví dụ: kỹ năng sống của những người sống ở những vùng miền khác nhau có sự khác nhau * Đặc điểm tâm sinh lý trẻ: - Đặc điểm về thể chất của trẻ: Cơ thể trẻ em là nền tảng vật chất của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “Thân thể khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “tinh thần sáng suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm, tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo,... - Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến việc tự lập của HS là hệ thần kinh của trẻ. Hệ thần kinh của trẻ Tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh. Bộ óc của các em phát triển về khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 9, 10 tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Khả năng kìm hãm(khả năng ức chế) của hệ thần kinh còn yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần kinh của các em đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo và cha mẹ, người thân của các em cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính tự chủ, lòng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ gìn trật tự nơi công cộng và trong lớp học. Mặt khác không được mắng, doạ dẫm, đe nạt các em vì làm như thế không những bị tổn thương đến tình cảm mà còn gây tác hại đến sự phát triển thần kinh và bộ óc của các em. - Khi trẻ bắt đầu gia nhập cuộc sống nhà trường - đi học Tiểu học, các em được học thêm những điều chưa hề có trong 6 năm đầu đời; khi gia nhập cuộc sống nhà trường các em phải tiến hành hoạt động học – hoạt động nghiêm chỉnh có kỉ cương, nền nếp với những yêu cầu nghiêm ngặt. Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập; chắc chắn trẻ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm lí chuẩn bị sẵn sàng đi học. Việc giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi đầu các em đến trường. - Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú ý, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm có: tính cách, nhu cầu nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nhân cách, ảnh hưởng đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sống của trẻ. Sự nhận thức đúng đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm quan trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. HS tiểu học thích bắt chước hành vi, cử chỉ, lời nói,... của các nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, của những người thân trong gia đình. tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng nhiều. Chính vì vậy những tính cách hành vi của những người xung quanh là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử của trẻ. Các dạng hoạt động của trẻ em được thực hiện trong các quan hệ: Trẻ em – Gia đình; Trẻ em - Đồ vật; Trẻ em – Nhà trường; Trẻ em – Xã hội. Trong các mối quan hệ, quan hệ thầy trò là mối quan hệ đặc biệt của mối quan hệ người – người. Ở Tiểu học, do uy tín của người thầy giáo các quan điểm, niềm tin, toàn bộ những hành vi cử chỉ của người thầy thường là những mẫu mực cho hành vi của học sinh nói chung. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ và cách ứng xử của các em trong quan hệ với người khác và với xã hội. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên các em thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy, cô giáo mình. Ở trường các em còn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Qua nhiều năm giảng dạy tại trường Tiểu học Nga Thái, tôi thấy thực tế của vấn đề " Giáo dục kĩ năng sống" là: *. Về giáo viên: - Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu khó nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, làm học sinh chưa thật sự hứng thú trong các hoạt động giáo dục. *. Về học sinh: - Học sinh đại đa số các em sống trong vùng đạo giáo, kinh tế đặc biệt khó khăn phần đông cha mẹ đi làm ăn xa phải ở nhà với ông, bà, chú, bác nên việc giáo dục kết hợp giữa gia đình và nhà trường cũng gặp rất nhiều khó khăn . Việc giáo dục kĩ năng sống thông qua người cha người mẹ cũng chưa được thuận tiện.Vì thế khi giao tiếp các em rất rụt rè, sợ sệt khi giao tiếp với thầy cô, bạn bè, người lớn. Chưa tham gia tích cực hoạt động nhóm, chưa tự đánh giá bạn bè, chưa biết tự đánh giá bản thân. - Kỹ năng giao tiếp với bạn bè, thầy cô rất hạn chế. *. Về Phụ huynh: - Nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học, nhu cầu vui chơi của các em, còn phó mặc việc giáo dục cho nhà trường. - Một số em vì hoàn cảnh gia đình đặc biệt nên biểu hiện sự mặc cảm, ít nói,... - Một số người trong gia đình giao tiếp còn hạn chế, xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm. *. Về nhà trường. Trường Tiểu học Nga Thái đóng trên địa bàn là một trong những xã khó khăn của huyện Nga Sơn. Chính vì vậy, giáo dục cũng gặp nhiều khó khăn. Trong hoạt động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên chỉ đạo nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới PPDH phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo dục kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay sau khi Bộ Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi thầy, cô giáo tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Nhiều thầy, cô trong nhà trường không chỉ nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ mà còn thường xuyên quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của học sinh. Năm học 2018-2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4A với 30 học sinh.Trong đó có 13 em nữ và 17 em nam.Có tới 9 em gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có 4 em gia đình đặc biệt khó khăn. Ngay từ đầu năm học , tôi kết hợp với phụ huynh đã khảo sát nhận thức về các kỹ năng sống của 30 học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Nga Thái , kết quả như sau: Các hành vi của học sinh quan sát được Mức độ Chưa đạt Đạt Tốt Mạnh dạn tự tin khi giao tiếp 10 15 5 Hợp tác khi làm việc nhóm 12 13 5 Đầu tóc, quần áo gọn gàng sạch sẽ 20 10 Làm việc nhà phù hợp như tưới cây, hái rau, quét nhà,.. 9 17 4 Tự giác, tự phục vụ như tự học bài cũ, tự mặc quần áo, tự đọc sách,... 11 14 5 Biết quan tâm đến bạn và sẵn sàng giúp đỡ bạn 8 16 6 Quan tâm đến môi trường sống xung quanh. 7 17 6 Từ kết quả trên cho thấy học sinh “Chưa đạt” và “ Đạt” ở mức độ rất thấp. Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được tốt hơn, tôi đã dạy lồng ghép vào các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tôi đã thực hiện các giải pháp sau: 2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề : *Giải pháp 1: Tổ chức hoạt động hát múa hoặc chơi trò chơi tại chỗ ngây trong mỗi tiết dạy : + Mục đích : - Giúp các em thư giãn đầu óc, tinh thần hứng khởi để tiếp thu kiến thức tiếp theo. - Rèn luyện khả năng tập trung tư tưởng, tinh thần tập thể,phản xạ nhanh nhạy cho các em. - Giúp các em mạnh dạn tự tin trước mọi tình huống. + Cách tiến hành và tổ chức : - Giáo viên lập kế hoạch cho các hoạt động ngây trong mỗi tiết dạy của môn học. - Trong các tiết dạy các môn học như Toán,Tiếng Việt, Khoa học, Đạo đức ... lớp 4 các em cần được thư giãn nghỉ ngơi một chút trước khi chuyển sang học hoạt động mới, tôi đã tổ chức cho học sinh hát, múa hoặc chơi trò chơi tại chỗ. Dựa vào một số bài hát các em đã thuộc hoặc dạy bài hát mới cho các em, rồi sáng tác cho các em một số động tác phụ họa như bài hát: Em yêu hòa bình,Bạn ơi lắng nghe,Trên ngựa ta phi nhanh...Hoặc một số trò chơi tại chỗ như : Nhanh tay nhanh mắt,Tập tầm vông; làm theo thầy nói; .... Ví dụ cụ thể : Trong bài : Chia cho số có ba chữ số Trang 86 – SGK lớp 4 Ngay sau khi cung cấp kiên thức mới về phép chia cho số có ba chữ số thì giáo viên cho học sinh chơi trò chơi nhanh tay nhanh mắt hoặc làm theo thầy nói... Hoặc cho học sinh tự điều khiển lớp chơi trò chơi .... + Kết quả của giải pháp : Tổ chức hát múa hoặc chơi trò chơi tại chỗ trong mỗi tiết học sẽ tạo sự thoải mái trong các giờ học, tạo sự bạo dạn, tự nhiên cho cả lớp, giúp học sinh biết lựa chọn và đưa ra những quyết định đúng. *Giải pháp 2: Tổ chức hoạt động thi rung chuông vàng : + Mục đích : - Tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để các em thể hiện tài năng, trí tuệ, đồng thời tạo cơ hội giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, rèn luyện kiến thức, xử lý tình huống, tạo điều kiện để các em giao lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm trong học tập, cũng như trong cuộc sống, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. + Cách tiến hành và tổ chức: Tôi lựa chọn một số chủ điểm trong năm như: Bảo vệ môi trường; an toàn giao thông; kính yêu Bác Hồ; phòng chống tai nạn thương tích, ... để tổ chức cho học sinh cả lớp được tham gia thi rung chuông vàng vào tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp của lớp mình ( 30 đến 35 phút). Học sinh ngồi tại chỗ, tại lớp học của mình để tham gia thi. Chuẩn bị 10 đến 12 câu hỏi theo chủ điểm, câu hỏi phù hợp với học sinh của lớp. Mỗi câu có phương án trả lời A,B,C,D. Học sinh chuẩn bị bảng con và phấn ( đã có sẵn). Học sinh cử ra hai bạn dẫn chương trình đọc câu hỏi và đáp án cùng phối hợp với giáo viên điều khiển cuộc thi. Sau mỗi câu hỏi, bạn nào sai sẽ úp bảng xuống dừng cuộc thi . Bạn nào có đáp án đúng sẽ tham gia thi tiếp. Mở đầu và kết thúc hội thi sẽ xen lẫn các tiết mục văn nghệ cá nhân hoặc nhóm múa hát. Bạn nào trả lời đúng vào vòng câu hỏi cuối cùng là người chiến thắng sẽ được thầy tặng hoa điểm tốt vì đạt thành tích trong hội thi. + Kết quả của giải pháp : Tổ chức thi rung chuông vàng như vậy, cả lớp sẽ được tham gia. Học sinh sẽ hình thành được nhiều kỹ năng như kĩ năng ra quyết định, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng từ chối, quyết đoán, hợp tác,...và đặc biệt các em rất vui, thích thú, tích cực tham gia " Học mà chơi, chơi mà học." *Giải pháp 3 : Tổ chức hoạt động thư viện: + Mục đích : - Học sinh tự tìm tòi, khám phá những kiến thức của nhân loại. - Có ý thức tự học, tự rèn luyện mình. + Cách tiến hành và tổ chức: Thư viện là nơi các em đến để mượn sách và đọc sách nhưng vì thư viện trường quá nhỏ, không đủ chỗ cho các em ngồi đọc. Vì vậy tôi đã chia lớp thành nhóm 4 em hoặc 5 em, các nhóm trưởng sẽ mượn báo hoặc sách truyện về đọc tại lớp. Các bạn trong nhóm sẽ thay nhau cùng đọc để các bạn trong nhóm cùng nghe. Hoặc kết hợp với giáo viên thư viện tổ chức cho học sinh nghe, nói chuyện về những tấm gương tự học, tự tìm tòi kiến thức qua sách báo. + Kết quả của giải pháp : Tổ chức hoạt động thư viện sẽ giúp học sinh thói quen đọc sách, kĩ năng tìm kiếm thông tin và xử lí thông tin. Giáo d
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_lop_4_thong_qua_hoat.doc