SKKN Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc tại trường PTDTNT Trung học Cơ sở huyện Krông Ana

SKKN Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc tại trường PTDTNT Trung học Cơ sở huyện Krông Ana

Cơ sở lý luận của vấn đề:

1. Kỷ luật là gì:

Chúng ta biết rằng kỷ luật là những quy tắc quy định, luật lệ mà con người phải thực hiện, chấp hành, tuân theo để đạt được mục tiêu đề ra.Kỷ luật là chìa khóa vạn năng giúp con người trở nên hoàn tất và thành công trong cuộc sống.

Trong thực tế “kỷ luật” thường được hiểu nhầm là “khống chế” và “ trừng phạt” đặc biệt trừng phạt thân thể. Tuy nhiên, đó không phải là nghĩa thực của từ “kỷ luật” đối với học sinh.

 2. Giáo dục kỷ luật tích cực là gì?

Quan điểm của giáo dục kỷ luật tích cực là: Việc mắc lỗi của học sinh được coi như lẽ tự nhiên của quá trình học tập và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là làm thế nào để học sinh tự nhận thức được bản thân, tự kiểm soát được hành vi, thái độ, trên cơ sở các nội quy, quy chế đã được xây dựng. Khi học sinh mắc lỗi, giáo viên là bạn, là anh, là chị, người mẹ, người cha chỉ cho các em nhận ra lỗi của mình để tự điều chỉnh. Việc tự nhận ra lỗi để điều chỉnh bản thân là cơ sở cho sự phát triển hoàn thiện nhân cách. Kỷ luật tích cực mang tính xây dựng và là biện pháp hiệu quả, nhằm tìm ra giải pháp giải quyết các tình huống mang tính thách thức trong lớp học và trong nhà trường. Giáo dục kỷ luật tích cực hỗ trợ việc dạy học và giáo dục các em học sinh DTTS. Giáo dục kỷ luật tích cực còn xây dựng sự tự tin của học sinh và long ham thích học tập cho các em.

 * Giáo dục kỷ luật tích cực là:

 Những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỷ luật tự giác của học sinh.

 Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân thủ.

 Giáo dục kỷ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho các em tính tự giác tuân theo các quy định và nguyên tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài.

 * Giáo dục kỷ luật tích cực là để phát triển hành vi cho các em, cụ thể là:

 Giáo dục học sinh tự kiểm soát và tự tin để biết cách thực hiện các hành vi mong đợi.

 Dạy trẻ biết cách tự kiềm chế bản thân và chung sống hài hòa với người khác.

 Giáo dục kỷ luật tích cực là sự động viên khích lệ thực hiện hành vi, xây dựng sự tự tin, lòng tự trọng và tính trách nhiệm, giúp các em phát triển nhân cách, chứ không phải làm cho các em bị đớn đau.

 Giáo dục kỷ luật tích cực tôn trọng trẻ và không mang tính bạo lực. Đây là cách tiếp cận mang tính giáo dục, giúp trẻ thành đạt, cung cấp cho các em thông tin các em cần để học và hỗ trợ sự phát triển của các em.

 *Giáo dục kỷ luật tích cực không phải là:

 Sự buông thả, để cho học sinh muốn làm gì thì làm.

 Không có các quy tắc, giới hạn hay sự mong đợi.

 Những phản ứng mang tính ngắn hạn hay những hình phạt thay thế cho việc tát, đánh hay sỉ nhục.

 

docx 17 trang hoathepmc36 01/03/2022 6624
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc tại trường PTDTNT Trung học Cơ sở huyện Krông Ana", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
1
Chú thích phần viết tắt 
2
2
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề.
Mục đích (Mục tiêu) nghiên cứu
3
3
3
Phần thứ 2: GIẢI QUYÉT VẤN ĐỀ 
Cơ sở lý luận.
Thực trạng.
Các giải pháp tiến hành để giải quyết vấn đề.
Tính mới của giải pháp.
Hiệu quả SKKN.
5
6
10
12
13
4
Phần thứ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
Kết luận.
Kiến nghị
15
15
5
Tài liệu tham khảo
16
CHÚ THÍCH PHẦN VIẾT TẮT
STT
Các chữ viết tắt
Nội dung
1
GD-ĐT
Giáo dục và Đào tạo
2
GV
Giáo viên
3
GVCN
Giáo viên chủ nhiệm
4
HSDTTD
Học sinh dân tộc thiểu số
5
GDKLTC
Giáo dục kỷ luật tích cực
6
PTDTNT 
Phổ thông dân tộc nội trú
7
DTTS
Dân tộc thiểu số
8
QĐ
Quyết định
9
SGK
Sách giáo khoa
10
THCS
Trung học cơ sở
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
	I. Đặt vấn đề
Lý do lý luận
	Học sinh trung học cơ sở (THCS) người dân tộc thiểu số (DTTS) cũng có những đặc điểm tâm lí chung như những học sinh THCS người Kinh cùng trang lứa. Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm chung đó các em có những nét đặc trưng riêng, những đặc trưng mang tính của tộc người và những đặc trưng do điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa tạo nên. Trong phạm vi bài viết này, tôi dựa trên những đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS người DTTS và đi sâu tìm hiểu, phân tích một số đặc điểm tâm lí tiêu biểu mà ở trường Phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở (PTDNT THCS) Krông Ana. 
Là cán bộ quản lí, giáo viên công tác ở trường PTDTNT THCS cấp huyện, việc hiểu những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS là rất cần thiết bởi vì: 
Nắm được những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS giúp cho giáo viên chọn giáo dục kỷ luật tích cực (GDKLTC) là phương pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng học sinh dân tộc trong trường PTDTNT THCS, nhằm phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục ở trường PTDTNT THCS.
Lý do thực tiễn:
	Đặc thù của các trường PTDTNT THCS Krông Ana gần 100% đối tượng học sinh là con em đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn huyện như: Êđê, Gia rai, Tày, Nùng, Mường, Thái Mỗi dân tộc có phong tục tập quán, ngôn ngữ khác nhau. Khi mới vào trường PTDTNT THCS các em còn nhỏ (Đa số dưới 13 tuổi) có không ít em chưa thành thạo tiếng phổ thông. Khả năng tiếp thu của các em còn chậm. Các em rất rụt rè trong giao tiếp. Trong trường, khi học sinh vi phạm các quy định, quy tắc của lớp, của trường, tùy mức độ vi phạm, các em sẽ bị kỷ luật theo mức độ và hình thức khác nhau. Trong thực tế có rất nhiều hình thức kỷ luật học sinh. Do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và cách giáo dục truyền thống “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời” nên nhiều giáo viên sử dụng các hình thức như mắng nhiếc, sỉ nhục, đánh, tát, phạt quỳ, bêu riếu Biện pháp cuối cùng của hình thức là đuổi học sinh. Biện pháp này thể hiện sự bất lực của giáo viên đặc biệt là giáo viên các trường có học sinh DTTS, vô hình dung chúng ta đẩy ra ngoài xã hội những “sản phẩm GD kém chất lượng” và đó chính là mầm mống của các hiện tượng tiêu cực gây rối loạn trật tự xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Hơn nữa hiện nay trong xã hội vấn nạn giáo viên dùng nhiều biên pháp kỷ luật học sinh không còn mang tính giáo dục như: Bắt học sinh đánh học sinh vi phạm, giáo viên cho học sinh uống nước của giẻ lau bảng. Thậm chí giáo viên đánh đập học sinh vẫn còn xảy ra không ít và nhiều lý do khác làm cho các em sợ thầy cô, ngại giao tiếp với thầy cô. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa nội dung giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số để toàn thể giáo viên trong trường nghiên cứu vận dụng vào việc giáo dục cho học sinh trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana để giúp các em học tốt các môn học, có tinh thần yêu trường, mến bạn, quí thầy cô và giúp các em luôn luôn cảm thấy: “Mỗi ngày mình sống ở trường là một niềm vui, niềm hạnh phúc” để áp dụng vào việc giáo dục học sinh DTTS tại trường PTDTNT THCS Krông Ana để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, đảm bảo duy trì sỉ số. Ngoài ra còn giúp các em phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng sống cơ bản nhằm phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách học sinh, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
	II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích:
Giáo dục kỷ luật tích cực góp phần giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh bởi vì mục đích của giáo dục kỷ luật tích cực là:
	+ Dạy học sinh tự hiểu hành vi của mình, tự có các sáng kiến và có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp trẻ có một quá trình phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời con người.
	+ Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh.
	+ Dạy cho học sinh những kỹ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời.
	+ Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em.
	+ Dạy cho học sinh biết cách cư xử nhã nhặn, không bạo lực, tôn trọng bản thân, biết thông cảm và tôn trọng quyền của người khác.
	Khi giáo viên áp dụng các biện pháp GDKLTC, học sinh không cảm thấy bị xúc phạm dẫn đến chán nản, GDKLTC giúp cho việc tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và học sinh, học sinh và học sinh, bố mẹ và con cái.
	2. Nhiệm vụ:
	2.1 Đối với lãnh đạo nhà trường.
	Để thực hiên tốt việc GDKLTC cho học sinh tôi đã tham mưu với lãnh đạo nhà trường thực hiện các nhiệm vụ sau:
	+ Tổ chức tuyên truyền vận động giáo viên thực hiện tốt phương pháp GDKLTC.
	+ Cung cấp sách báo, tài liệu về GDKLTC cho giáo viên và phụ huynh.
	+ Tổ chức các lớp tập huấn và cử giáo viên tham gia các lớp tập huấn về GDKLTC.
	+ Xây dựng cơ chế khuyến khích việc thực hiện các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
	+ Tổ chức tuyên truyền cho phụ huynh về GDKLTC thông qua các buổi họp phụ huynh, các buổi hội thảo, tọa đàm
	2.2 Đối với giáo viên:
	Khi GDKLTC cho học sinh giáo viên cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
	+ Dạy học sinh tự hiểu hành vi của mình, tự có các sáng kiến và có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp trẻ có một quá trình phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời con người.
	+ Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh.
	+ Dạy cho học sinh những kỷ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời.
	+ Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em.
	+ Dạy cho học sinh biết cách cư xử nhã nhặn, không bạo lực, tôn trọng bản thân, biết thông cảm và tôn trọng quyền của người khác.
	Khi giáo viên áp dụng các nội dung GDKLTC như đã nêu trên, học sinh không cảm thấy bị xúc phạm dẫn đến chán nản, GDKLTC giúp cho việc tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và học sinh, học sinh và học sinh, bố mẹ và con cái.
	+ Mời phụ huynh tham gia vào các hoạt động tập thể do nhà trường, lớp tổ chức.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề:
1. Kỷ luật là gì:
Chúng ta biết rằng kỷ luật là những quy tắc quy định, luật lệ mà con người phải thực hiện, chấp hành, tuân theo để đạt được mục tiêu đề ra.Kỷ luật là chìa khóa vạn năng giúp con người trở nên hoàn tất và thành công trong cuộc sống.
Trong thực tế “kỷ luật” thường được hiểu nhầm là “khống chế” và “ trừng phạt” đặc biệt trừng phạt thân thể. Tuy nhiên, đó không phải là nghĩa thực của từ “kỷ luật” đối với học sinh.
	2. Giáo dục kỷ luật tích cực là gì?
Quan điểm của giáo dục kỷ luật tích cực là: Việc mắc lỗi của học sinh được coi như lẽ tự nhiên của quá trình học tập và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là làm thế nào để học sinh tự nhận thức được bản thân, tự kiểm soát được hành vi, thái độ, trên cơ sở các nội quy, quy chế đã được xây dựng. Khi học sinh mắc lỗi, giáo viên là bạn, là anh, là chị, người mẹ, người cha chỉ cho các em nhận ra lỗi của mình để tự điều chỉnh. Việc tự nhận ra lỗi để điều chỉnh bản thân là cơ sở cho sự phát triển hoàn thiện nhân cách. Kỷ luật tích cực mang tính xây dựng và là biện pháp hiệu quả, nhằm tìm ra giải pháp giải quyết các tình huống mang tính thách thức trong lớp học và trong nhà trường. Giáo dục kỷ luật tích cực hỗ trợ việc dạy học và giáo dục các em học sinh DTTS. Giáo dục kỷ luật tích cực còn xây dựng sự tự tin của học sinh và long ham thích học tập cho các em.
	* Giáo dục kỷ luật tích cực là:
	Những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỷ luật tự giác của học sinh.
	Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân thủ.
	Giáo dục kỷ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho các em tính tự giác tuân theo các quy định và nguyên tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài.
	* Giáo dục kỷ luật tích cực là để phát triển hành vi cho các em, cụ thể là:
	 Giáo dục học sinh tự kiểm soát và tự tin để biết cách thực hiện các hành vi mong đợi.
	Dạy trẻ biết cách tự kiềm chế bản thân và chung sống hài hòa với người khác.
	Giáo dục kỷ luật tích cực là sự động viên khích lệ thực hiện hành vi, xây dựng sự tự tin, lòng tự trọng và tính trách nhiệm, giúp các em phát triển nhân cách, chứ không phải làm cho các em bị đớn đau.
	Giáo dục kỷ luật tích cực tôn trọng trẻ và không mang tính bạo lực. Đây là cách tiếp cận mang tính giáo dục, giúp trẻ thành đạt, cung cấp cho các em thông tin các em cần để học và hỗ trợ sự phát triển của các em.
	*Giáo dục kỷ luật tích cực không phải là:
	Sự buông thả, để cho học sinh muốn làm gì thì làm.
	Không có các quy tắc, giới hạn hay sự mong đợi.
	Những phản ứng mang tính ngắn hạn hay những hình phạt thay thế cho việc tát, đánh hay sỉ nhục.
	II. Thực trạng 
Thực trạng về tâm sinh lý của học sinh
Thực trạng về tâm sinh lý của học sinh THCS người DTTS được mô tả một số nội dung dưới đây:
1.1 Một số vấn đề về tri giác:
Tri giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan.
Nghiên cứu đặc điểm tri giác của học sinh THCS người DTTS có thể rút ra một số nhận xét sau:
Độ nhạy cảm của thính giác của các em rất cao, mắt các em rất tinh. Tai và mắt của các em rất tinh nhạy là do từ nhỏ các em đã theo người lớn vào rừng săn bắn, bẫy chim, tìm cây, tìm rau rừng nên hình thành thói quen tri giác tập trung, khả năng phân biệt sự vật và hiện tượng tốt. Nghe tiếng chim hót các em có thể nhận ra đó là chim gì, nhìn vết chân các em biết đó là loài thú gì, các em có thể phát hiện những con vật nhỏ bé như con vắt, con kiến Giác quan tinh, nhạy là điều kiện thuận lợi cho các em tri giác đối tượng trong học tập và biết vâng lời thầy cô giáo.
Sự định hướng tri giác theo nhiệm vụ (học tập) đặt ra chưa cao. Các em thường bị thu hút vào những thuộc tính rực rỡ, màu sắc mới lạ ở bên ngoài đối tượng tri giác, do vậy các em khó phân biệt được đâu là thuộc tính bản chất, đâu là thuộc tính không bản chất.
Khả năng tư duy hình học, vật lí của các em còn yếu. Các em có thể nhận ra từng dấu hiệu, thuộc tính đơn lẻ của sự vật, hiện tượng. Song quá trình tổng hợp khái quát để đi đến nhận xét chung lại hạn chế, khả năng kết hợp các giác quan yếu. Các em có thể nhận diện nhanh chóng các hình vẽ do giáo viên vẽ trên bảng, song để các em tự vẽ lại thì rất khó khăn, nhất là phải sử dụng dụng cụ học tập như Compa, thước kẻ.
Tính kế hoạch và sự kiên trì quan sát trong quá trình học tập hạn chế. Các em không thể tập trung được lâu. Nếu giờ dạy thiếu đồ dùng dạy học trực quan, thiếu ngôn ngữ dân tộc để giải thích, giáo viên nói nhanh không nhấn mạnh nội dung quan trọng cần giáo dục, hoặc nói quá to thì sự chán nản của các em đến rất nhanh, khi đó các em không quan sát, không nói chuyện, không phá phách như học sinh người Kinh, các em vẫn ngồi yên, song trong đầu không hoạt động. Một giáo viên tâm sự “Giáo viên chỉ nói to hơn bình thường một chút là học sinh nghĩ là chúng tôi mắng các em, vì vậy chúng tôi phải thận trọng hơn khi giáo dục kỷ luật”.
1.2 Đặc điểm nhận thức ngôn ngữ tiếng Việt
Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, là phương tiện để thực hiện quá trình nhận thức của bất cứ dân tộc nào trẻ em sinh ra đã nói tiếng mẹ đẻ. Các em giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Khi đến trường các em học bằng tiếng Việt, các em đã gặp khó khăn về ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp.
Qua thảo luận nhóm với học sinh, qua xem bài kiểm tra của các em, xem vở ghi chép hàng ngày của các em và quan sát các em giao tiếp với nhau Có thể kết luận nhận thức về ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh DTTS:
	Vốn tiếng Việt của học sinh DTTS còn nghèo nàn;
	Các em hiểu rất ít về ngôn ngữ tiếng Việt;
	Khó khăn trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt;
	Khó khăn trong tư duy và nhận thức khoa học;
	Theo nhận thức của tôi, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của học sinh dân tộc nhưng không phải là ngoại ngữ. Học sinh dân tộc tiếp nhận tiếng Việt là tiếp nhận với trách nhiệm, tình cảm, nghĩa vụ và quyền lợi. Vấn đề quan trọng là giáo viên cần giúp học sinh khắc phục những chuyển di ngôn ngữ có hại và khai thác tốt các chuyển di ngôn ngữ có lợi, tôi nghĩ rằng chúng ta coi nhẹ khó khăn hay quá nhấn mạnh khó khăn của học sinh dân tộc khi học tiếng Việt đều là không đúng với khoa học dạy tiếng.
1.3 Đặc điểm về tư duy:
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ bên trong có tính chất quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó chưa biết. Học sinh DTTS có các đặc điểm tư duy riêng biệt sau:
Các em chưa có thói quen lao động trí óc, phần lớn các em ngại suy nghĩ, ngại động não, khi gặp phải vấn đề khó khăn là các em bỏ qua, nên dẫn tới khả năng tự học hạn chế. Vì vậy khi gặp vấn đề này thì trong quá trình giáo dục kỷ luật giáo viên cần lưu ý.
Tư duy của học sinh DTTS còn thể hiện kém nhanh nhẹn, kém linh hoạt và kém mềm dẻo. Mặt khác do hạn chế về Tiếng Việt nên ngại tranh luận, ngại trình bày các vấn đề khó nói, sợ bị các bạn cười.
	Học sinh DTTS tư duy trực quan hình ảnh tốt, tư duy trừu tượng logic yếu.
Học sinh DTTS thường tồn tại kiểu tư duy kinh nghiệm; yếu về tư duy lí luận, tư duy sáng tạo, tư duy khoa học.
Những đặc điểm về tư duy chi phối toàn bộ quá trình nhận thức của các em, tác động mạnh mẽ tới các thuộc tính tâm lí và trạng thái tâm lí, trong giáo dục giáo viên cần giúp các em tư duy lí luận, tư duy khoa học thông qua các hoạt động.
1.4 Đặc điểm về trí nhớ
Học sinh DTTS có một số đặc điểm về ghi nhớ sau:
Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế, các em ghi nhớ một cách rời rạc, thiếu logic với nhau. Để khắc phục nhược điểm này GV phải kiên trì, mỗi vấn đề giáo dục yêu cầu các em nhớ mình phải làm cái gì, dựa vào đâu để làm được, làm thế nào để không vi phạm kỷ luật.
Khả năng tái hiện không tốt. Biểu hiện là do các em trình bày lại vấn đề đã các em đã đọc là rất khó khăn. Vậy để giúp học sinh tái hiện nhanh chóng giáo viên cần hướng dẫn học sinh có thói quen truy bài, trao đổi bài thường xuyên, phát biểu trước đám đông
1.5 Đặc điểm về tình cảm:
Học sinh DTTS có những đặc điểm về tình cảm như sau:
Tình cảm của các em là chân thực, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng, không có hiện tượng quanh co, lèo lái hoặc khéo léo che đậy những tình cảm của mình. Tình cảm của các em rất thầm kín.
Các em học sinh rất gắn bó với gia đình, làng bản, quê hương. Hầu hết các em không muốn xa gia đình. Khi phải đi học ở trường PTDTNT THCS các em rất nhớ nhà, nhiều khi khóc cả tuần.
Tình cảm bạn bè của các em học sinh DTTS rất độc đáo, thân nhau như anh em, bảo vệ nhau đến cùng. Bạn nghỉ học cũng phải nghỉ học theo.
Các em rất ưa tình cảm và giải quyết mọi vấn đề bằng tình cảm. Một em gái dân tộc nói: “Khi giáo viên mắng, em thấy buồn và không muốn học nữa”
Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra mạnh mẽ nhưng không cân đối. Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục.
Là cán bộ quản lí, giáo viên công tác ở trường PTDTNT THCS cấp huyện, việc hiểu những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS là rất cần thiết. 
Nắm được những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS giúp cho giáo viên lựa chọn được những phương pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng học sinh dân tộc, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục ở trường PTDTNT THCS đặc biệt là giáo dục kỷ luật tích cực.
	2. Thực trạng về cách giáo dục kỷ luật của một số giáo viên.
	Khi chưa nắm biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực nếu có học sinh vi phạm các quy định, quy tắc của lớp, của trường thì có một số giáo viên trong trường thường dùng biện pháp trừng phạt thân thể bao gồm: trừng phạt về thể xác (đánh, véo, dùng vật để đánh, kéo tai, giật tóc, buộc học sinh phải ở trong một tư thế không thoải mái (quỳ, úp mặt vào tường) và trừng phạt về tinh thần (la mắng, nhiếc móc, hạ nhục, làm cho xấu hổ, chửi rủa làm cho khó xử)
Trừng phạt về thân thể hay trừng phạt tinh thần đều không phải là giáo dục kỷ luật, trừng phạt làm đánh mất sự tự tin của học sinh, giảm ý thức kỷ luật và khiến cho học sinh không thích, thậm chí căm ghét trường học.
Trừng phạt thân thể là việc làm đánh mất danh dự của học sinh, có thể để lại những vết sẹo trong tâm hồn của học sinh, khiến các em luôn có thái độ thù địch.
Ảnh hưởng của trừng phạt đối với hành vi đạo đức lối sống của học sinh DTTS:
+ Việc giáo viên trừng phạt thân thể đối với học sinh vô tình đem tới cho trẻ một thông điêp sai lầm, rằng cứ dùng bạo lực là có thể giải quyết hết mọi việc. Từ đó trẻ bắt chước cách làm của người lớn rồi dùng bạo lực để giải quyết các bất đồng của mình với người khác.
+ Việc trừng phạt thân thể có xu hướng nuôi dưỡng thái độ thù địch, hung hăng, trái ngược với ý thức kỷ luật tự giác. Đôi khi do quá dạn đòn, trẻ sẽ trở nên chai lì. Bướng bỉnh, khó bảo, thậm chí chống đối.
+ Việc trừng phạt thân thể phá hủy mối quan hệ quan tâm, gắn bó, tin tưởng giữa giáo viên và học sinh. Có trẻ vì thế mà oán hận thù ghét người lớn, làm phản lại quá trình phát triển về mặt đạo đức, ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy trò, từ đó sẽ bị mất niềm tin.
+ Trừng phạt thân thể làm giảm lòng tự trọng của trẻ, kích thích sự giận dữ, chống đối và đẩy các em tới chỗ muốn chạy trốn khỏi môi trường giáo dục, tệ hại hơn là nó gián tiếp dạy học sinh có thể giải quyết vấn đề bằng bạo lực.
Chúng ta hãy đọc những tâm sự dưới đây của học sinh:
 “Em rất sợ bị trừng phạt thân thể, em thật sự không tưởng tượng nổi một kiểu giáo dục như thế”. 
“Có một điều em rất ghét ấy là bị đánh. Việc này làm em không muốn đi học nữa”
 “Việc đánh, mắng đã quá quen thuộc với chúng em, lúc đó em cảm thấy chán đời, buồn và muốn tìm bạn bè để tâm sự”
“Mỗi ngày của em như sống trong địa ngục, những lúc đó em chỉ muốn bỏ học. Khi viết thư này thì các bạn em đã bỏ học rồi vì không chịu nổi sự mỉa mai và đánh, mắng của thầy cô giáo”.
Qua những tâm sự trên chúng ta thấy rằng GDKLTC là phương pháp giáo dục tối ưu nhất hiện nay.
Trước đây, đặc biệt năm học 2017 – 2018 do chưa áp dụng phương pháp GDKLTC nên tình trạng học sinh tại trường bỏ học và chuyển trường tương đối nhiều cụ thể tính đến tháng 2 năm 2018 có 6 HS chuyển trường, 3 Hs bỏ học. 
III. Các giải pháp đã tiến hành:
1. Quan tâm đến những khó khăn của học sinh DTTS.
Những vấn đề về hành vi có thể khiến học sinh DTTS gặp khó khăn trong học tập và những khó khăn trong học tập có thể gây ra những vấn đề về hành vi.
Khi có học sinh vi phạm giáo viên luôn quan tâm đến những vấn đề thực tế mà các em phải đối mặt trong cuộc sống. Đây thường là những vấn đề có liên quan đến môi trường, hoàn cảnh sống của các em, những khó khăn trong học tập (học yếu, mắt kém, khó khăn về nghe, khó khăn về sử dụng Tiếng Việt) những vấn đề về ở gia đình (hoàn cảnh kinh tế, cha mẹ bất hòa, ly hôn) những bức xúc khi các em bị tổn thương và bị hiểu lầm hay bị đối xử tàn tệ (bị chế nhạo, xúc p

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_giao_duc_ky_luat_tich_cuc_doi_voi_hoc_sinh_dan_toc_tai.docx