SKKN Giáo dục giới tính nhằm hạn chế hệ lụy tình yêu học đường cho học sinh lớp 10 Trường THPT Như Thanh 2
Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt. Giáo viên chủ nhiệm khi đã hiểu rõ về từng học sinh thì công tác chủ nhiệm sẽ không có gì là khó khăn mà sẽ là niềm vui, là hứng thú, niềm say mê trong nghề đối với giáo viên chủ nhiệm lớp.
Ngày nay, do chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng thông tin với nhiều phương tiện nghe, nhìn, sách, báo, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình bạn, tình yêu, quan hệ nam nữ là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển sớm về giới tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh THPT.
Theo kết quả thống kê gần đây của Google, Việt Nam là một trong những nước có số câu lệnh tìm kiếm chứa từ “sex” nhiều nhất thế giới và hiện là quốc gia có tỉ lệ phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ năm trên thế giới. Con số này khiến không ít người e ngại về tình hình giáo dục giới tính ở Việt Nam. Có bao nhiêu bạn trẻ đã biết gạn lọc những kiến thức lành mạnh và cần thiết cho mình?
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tại trường phổ thông, tôi nhận thấy việc giáo dục giới tính cho học sinh là việc làm rất cần thiết. Vì học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi con người nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp. Do vậy, để học sinh THPT có kiến thức và hiểu biết về giới tính thì vấn đề giáo dục giới tính cho các em vô cùng quan trọng. Giáo dục giới tính trong trường THPT sẽ trang bị cho các em có thái độ, hành vi đúng đắn trong giải quyết các mối quan hệ với bạn bè khác giới đặc biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tình yêu, hôn nhân và gia đình để góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, tốt đẹp.
A. MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt. Giáo viên chủ nhiệm khi đã hiểu rõ về từng học sinh thì công tác chủ nhiệm sẽ không có gì là khó khăn mà sẽ là niềm vui, là hứng thú, niềm say mê trong nghề đối với giáo viên chủ nhiệm lớp. Ngày nay, do chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng thông tin với nhiều phương tiện nghe, nhìn, sách, báo, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình bạn, tình yêu, quan hệ nam nữ là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển sớm về giới tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh THPT. Theo kết quả thống kê gần đây của Google, Việt Nam là một trong những nước có số câu lệnh tìm kiếm chứa từ “sex” nhiều nhất thế giới và hiện là quốc gia có tỉ lệ phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ năm trên thế giới. Con số này khiến không ít người e ngại về tình hình giáo dục giới tính ở Việt Nam. Có bao nhiêu bạn trẻ đã biết gạn lọc những kiến thức lành mạnh và cần thiết cho mình? Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tại trường phổ thông, tôi nhận thấy việc giáo dục giới tính cho học sinh là việc làm rất cần thiết. Vì học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi con người nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp. Do vậy, để học sinh THPT có kiến thức và hiểu biết về giới tính thì vấn đề giáo dục giới tính cho các em vô cùng quan trọng. Giáo dục giới tính trong trường THPT sẽ trang bị cho các em có thái độ, hành vi đúng đắn trong giải quyết các mối quan hệ với bạn bè khác giới đặc biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tình yêu, hôn nhân và gia đình để góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, tốt đẹp. Nhiều năm qua làm công tác chủ nhiệm ở Trường THPT Như Thanh 2 tôi rất buồn và nhức nhối mỗi khi nhìn thấy học sinh phải bỏ học giữa chừng để lấy chồng; nhiều học sinh phải nạo phá thai khi đang đi học Làm thế nào để hạn chế những hệ lụy đáng tiếc xảy ra ở học sinh khi yêu sớm? Tôi thiết nghĩ các em phải được trang bị kiến thức về sức khỏe sinh sản và an toàn tình dục một cách đầy đủ và toàn diện ngay từ khi bắt đầu bước vào trường THPT. Công việc này phải được thực hiện như giờ học quan trọng do chính giáo viên chủ nhiệm đảm trách. Đó chính là lí do tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm về việc “ Giáo dục giới tính nhằm hạn chế hệ lụy tình yêu học đường cho học sinh lớp 10 Trường THPT Như Thanh 2”. II. Mục đích nghiên cứu Trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết về sức khỏe giới tính - sức khỏe sinh sản, tình dục, hôn nhân. Từ đó giúp các em thay đổi nhận thức, hành vi về sức khỏe giới tính, có cuộc sống lành mạnh, có trách nhiệm, hạn chế những sai lầm liên quan đến tình dục ở tuổi vị thành niên, hạn chế tỉ lệ có thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, tảo hôn. Đồng thời giúp học sinh có những kĩ năng giải quyết được những vấn đề khó khăn gặp phải trong thực tiễn liên quan đến sức khỏe giới tính. III. Đối tượng nghiên cứu Tình yêu - an toàn tình dục; Hậu quả việc nạo phá thai và tảo hôn. Kiến thức về Luật Hôn nhân và Gia đình. Học sinh lớp 10A6 trường THPT Như Thanh 2. IV. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tài liệu Khảo sát, quan sát điều tra thực tế Tổng kết kinh nghiệm B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Theo định nghĩa của ngành y tế, giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người.. Vấn đề tổ chức hoạt động giáo dục giới tính ở nước ta trong thời gian gần đây đã được nhiều nhà khoa học, các nhà quản lý, các tổ chức chính trị - xã hội quan tâm nghiên cứu. Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng PhạmVăn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên quan xây dựng chương trình chính hoá và ngoại khoá nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái.”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả nước. Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Bùi Ngọc Oánh, Minh Đức đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam. Các tác giả, các nhà nghiên cứu giáo dục, các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính trong nhà trường, về vai trò của các nhà giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục như : - Tác giả J.P MA-SƠ-LÔ-VA (Tiệp Khắc) đã nghiên cứu các vấn đề về giới tính cho rằng:''Nhiều người trong chúng ta biết rằng không nên để con cái phải tự lần mò tìm hiểu lấy chuyện tình dục, song lại không biết hướng dẫn, tác động, không biết khi nào cần nói và nói như thế nào. Thế hệ trẻ ngày nay khác rất xa thế hệ chúng ta. Vì vậy phải dẫn dắt họ theo kiểu khác.”, “Mục đích của toàn bộ chương trình giáo dục tình dục từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành không chỉ là trang bị kiến thức, xây dựng ý thức tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những quan niệm đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng, trong gia đình và trong xã hội''. [1; 38] - Tác giả Nguyễn Quang Dương lại nói:'' Trở ngại lớn trong việc giáo dục giới tính trẻ vị thành niên là do thầy cô và cha mẹ thường chỉ chú trọng việc giáo dục bằng sức ép từ trên dội xuống và tác động một chiều, không cởi mở, thiếu lắng nghe. Điều đó càng tạo thêm hố sâu, khoảng cách giữa thầy cô, cha mẹ và con cái, làm giảm thiểu (có khi phản tác dụng) về hiệu quả giáo dục... Chính vì vậy, mà việc liên kết giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong vấn đề này là vô cùng quan trọng”.[2; 56] - Tác giả Võ Hưng, tại Hội thảo khoa học ''Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa giáo dục giới tính vào trường trung học tại Tp. HCM'' khẳng định:''Các bậc cha mẹ cần hiểu rõ mục đích giáo dục giới tính là giúp con em biết tự tin, tự trọng và tự bảo vệ để sau này trở thành người có trách nhiệm với xã hội, biết tôn trọng nhau trong quan hệ nam nữ, tạo điều kiện để xây dựng cuộc sống hạnh phúc''.[3;41] - Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện. Đề án đã nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ huynh ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12. - Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, Giáo sư Đặng Xuân Hoài cho rằng, giáo dục giới tính có phạm vi rất rộng lớn, tác động toàn diện đến tâm lí, đạo đức con người, “là hình thành tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh vực thầm kín của đời sống con ngưòi, hình thành những quan niệm đạo đức lành mạnh giữa em trai và em gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những sự “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần khiết và tươi mát về đạo đức trong tình cảm của các em.”[4;19]. - Theo giáo sư Phạm Hoàng Gia, giáo dục giới tính phải được xem xét như một bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật thiết với giáo dục dân số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân-gia đình và với các mặt giáo dục khác trong nhà trường phổ thông. Do vậy cần phải tiến hành công tác giáo dục giới tính một cách đồng thời, đồng bộ trong mối quan hệ có tính chất hệ thống với các mặt giáo dục khác, phải gắn bó mật thiết với các mặt giáo dục khác trong nền giáo dục toàn diện. Từ những quan niệm trên, PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh đã kết luận: “Giáo dục giới tính là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp sống văn hoá giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.”[5; 27]. Những công trình này thực sự đã nghiên cứu những mảng đề tài hết sức thiết thực, cụ thể trong công tác quản lý, xây dựng đội ngũ làm công tác giáo dục giới tính trong các trường phổ thông. II. Thực trạng vấn đề II.1. Thực trạng học sinh Học sinh trường THPT Như Thanh 2 nói chung và học sinh lớp 10A6 nói riêng hầu hết là con em dân tộc điều kiện kinh tế khó khăn vì thế việc tiếp thu những giá trị văn hóa mới mẻ, tiến bộ còn hạn chế. Các em đều đã được tiếp cận với công nghệ thông tin nhưng chưa có khả năng chọn lọc những thông tin có giá trị. Mặt khác, đa số học sinh ở trọ xa nhà thiếu sự quan tâm sát sao của gia đình bên cạnh đó lại phải chịu ảnh hưởng những yếu tố tiêu cực từ môi trường xung quanh, kĩ năng sống yếu kém nên không tránh khỏi việc sa ngã trước cám dỗ nhất là đua nhau yêu và học đòi chơi bời lêu lổng. Qua thăm dò thực tế tại trường THPT Như Thanh 2 đã cho thấy, chuyện tình yêu ở lứa tuổi học trò ngay nay không còn là chuyện lạ lẫm, thậm chí nó đã trở nên như “chuyện thường ngày ở huyện”. Khi hai phái thích nhau, dù là ở tuổi học trò, họ cũng không che giấu những cử chỉ thân mật và gần gũi. Trong đó, chuyện nắm tay người mình yêu được các bạn thừa nhận là nhiều nhất, ngoài ra cũng không thiếu những cử chỉ bày tỏ tình yêu như ôm ấp, âu yếm, hôn nhau Và xa hơn nữa, có một số bạn cũng thừa nhận đã làm "chuyện ấy" lần đầu với người mình thích. Theo thống kê từ năm học 2013- 2016, tại trường THPT Như Thanh 2 đã có 25 học sinh nữ bỏ học ở cả 3 khối 10, 11, 12 để lấy chồng vì lí do đã có thai với người yêu. Chỉ tính riêng năm hoc 2015-2016 ở lớp khối 11 đã có 6 em đã có thai được 3, 4 tháng phải bỏ học để cưới “chạy”. Trong số đó có cả những học sinh là học sinh tiên tiến, học sinh trong đội tuyển ôn thi học sinh giỏi. Số học sinh vì yêu sớm mà sa sút học tập thì không thể kể hết. Đó là thực trạng đáng buồn của học sinh hiện nay. Nhiều học sinh yêu sớm, học tập giảm sút; quan hệ tình dục bừa bãi..Nhiều học sinh đã mang thai phải giấu bố mẹ đi nạo phá thai. Không ít học sinh bị kỉ luật vì đánh ghen tranh giành người yêu. Có nhiều học sinh đã bỏ học trốn theo người yêu vì không được gia đình chấp thuận hôn nhân khi đã lỡ mang thai. II.2. Thực trạng giáo viên Nhà trường đã lồng ghép giáo dục giới tính vào nhiều môn học nhưng nội dung, phương pháp chưa giải quyết vấn đề một cách triệt để, trọn vẹn, mới chỉ dừng lại ở bước tìm hiểu nên dễ tạo tâm lí băn khoăn, tò mò của học sinh. Tuy nhiên phương tiện giảng dạy còn thiếu; tài liệu rất hạn chế, chủ yếu giáo viên tự khai thác thông tin từ các nguồn trên internet. Một số giáo viên đã ý thức được sự cần thiết về việc giáo dục giới tính cho học sinh nhưng chưa có giáo viên nào tổ chức giảng dạy một cách bài bản đầy đủ, quy mô mà chủ yếu chỉ là những lời nhắc nhở có tính chất răn đe. Nhiều giáo viên vì ngại vấn đề có tính chất nhạy cảm nên cách làm còn hời hợt. Hơn nữa, giáo dục giới tính liên quan đến nhiều ngành khác nhau đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng và nhiều kinh nghiệm khi giảng dạy. Nguyên nhân của thực trạng trên: Tuổi vị thành niên là độ tuổi phát triển nhanh về thể chất, có nhiều thay đổi tâm sinh lí. Thứ hai là do điều kiện xã hội phát triển học sinh tiếp cận với thông tin, kiến thức mới nhiều dễ đối mặt với những nguy hiểm đe dọa đến sức khỏe như thông tin, hình ảnh kích động, các tệ nạn xã hộiMặt khác, học sinh chưa có kinh nghiệm sống, kĩ năng sống nên dễ bị lạm dụng, ép buộc, sa ngãHơn nữa chương trình giáo dục giới tính trong nhà trường giảng dạy còn hạn chế. Trong khi đó học sinh lại ngại tìm hiểu một cách chính thống. Chính sự thiếu hiểu biết cả học sinh dẫn đến hậu quả khôn lường. Ngoài ra phải kể đến sự thiếu quan tâm của gia đình về giáo dục sức khỏe giới tính cho học sinh. Thực tế ở trường THPT Như Thanh 2 cũng gặp những khó khăn trên .Việc giáo dục giới tính cho học sinh được giao cho các giáo viên bộ môn Sinh học. Nhưng việc giảng dạy, tổ chức thảo luận các chuyên đề giới tính như thế nào thì các giáo viên cũng phải tự mày mò vì chưa được đào tạo, không có hướng dẫn cụ thể ,chưa được trang bị đầy đủ kĩ năng, kiến thức, nắm bắt được tâm lí học sinh để thực hiện các bài dạy giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn một cách hiệu quả. Không biết nên dạy cho học sinh những kiến thức và kĩ năng gì ? tổ chức như thế nào? III. Một số kinh nghiệm giáo dục giới tính cho học sinh. III.1. Nội dung giáo dục giới tính cho học sinh lớp 10 - Tình yêu - tình dục - Cách phòng tránh mang thai và nạo phá thai - Các bệnh lây nhiềm đường tình dục - Tảo hôn - Quyền lợi nghĩa vụ và trách nhiệm trong hôn nhân. III.2. Nguyên tắc giáo dục: - Không sử dụng biện pháp cấm đoán thô bạo - Trình bày nội dung phải khách quan, rõ ràng, trong sáng, giản dị, dễ hiểu - Lựa chọn thời gian, địa điểm cung cấp thông tin có tính chất định hướng cho học sinh. - Nội dung giáo dục phải phù hợp tâm sinh lí đối tượng tiếp thu - Phát huy vai trò và tính tự giáo dục của học sinh. - Giáo dục theo phương châm “mưa dầm thấm lâu”, không nóng vội. III.3. Thời gian thực hiện: - Giờ sinh hoạt hàng tuần - Hoạt động ngoài giờ lên lớp - Giáo viên chủ nhiệm tùy đặc điểm tình hình của lớp để bố trí thời gian thực hiện phù hợp. III.4. Tiến trình thực hiện III.4.1. Khảo sát mức độ hiểu biết của học sinh III.4.1.1.Mục đích: Nắm bắt được mức độ hiểu biết của học sinh về các nội dung về sức khỏe giới tính để từ đó giáo viên có cơ sở để biên soạn nội dung giảng dạy phù hợp. III.4.1.2.Hình thức tổ chức: - Gv chuẩn bị hệ thống câu hỏi trắc nghiệm (Phụ lục) - Phát phiếu cho học sinh làm. -Thu phiếu và đánh giá kết quả, phân loại mức độ hiểu biết của học sinh để lựa chọn nội dung cần biên soạn. Kết quả khảo sát mức độ hiểu biết của học sinh Phiếu 1: STT Mức độ Số lượng Tỉ lệ % Tổng số 1 Rất đầy đủ 0 0 35 2 Chưa đầy đủ 21 60 35 3 Rất ít 9 26 35 4 Không hoàn toàn biết 5 14 35 Phiếu 2: * Nhận thức của học sinh về các kiến thức giới tính: - Học sinh trả lời chính xác: 8/35 học sinh ( 23%) - Học sinh trả lời sai: 27/35 học sinh (77%) Từ kết quả khảo sát trên tôi nhận thấy mình cần phải biên soạn những nội dung nào, mức độ ra sao để giáo dục cho học sinh làm sao để đầy đủ nhất, toàn diện nhất. III.4.2. Biên soạn nội dung chương trình và giáo dục học sinh III.4.2.1. Mục đích: + Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, toàn diện về sức khỏe giới tính + Giáo dục cho các em có quan niệm đúng về tình yêu và tình dục. Hiểu được giá trị của tình yêu trong sáng, lành mạnh của tuổi học trò. + Hiểu được hậu quả của yêu sớm và quan hệ tình dục sớm, + Có kĩ năng xử lí để bảo vệ mình tránh bị xâm hại tình dục; Kĩ năng để nói không với quan hệ tình dục sớm. III.4.2.2. Hình thức : Thảo luận, trao đổi kết hợp thuyết trình qua hình ảnh. III.4.2.3.Thời gian và địa điểm : tại lớp học III.4.2.4. Đối tượng tham gia : Học sinh lớp 10 A6 III.4.2.5.Phương tiện cần sử dụng : Máy chiếu * Tiến trình thực hiện: Chia lớp thành 4 tổ, mỗi tổ thảo luận một nội dung sau đó đại diện nhóm trình bày. Học sinh lớp 10A6 đang thảo luận; Tổ 1 trình bày Tổ 1: Tình yêu học đường và những hệ lụy. - Thế nào là tình yêu ? - Khi em cảm thấy +Muốn chia sẻ với người ấy mọi điều. + Muốn gần gũi và chạm vào người ấy. + Cảm thấy bối rối ,hồi hộp và căng thẳng khi gần người ấy + Luôn nghĩ và nhớ về người ấy. đó có phải là em đã yêu không ? - Ở độ tuổi học sinh có nên yêu không ? - Một số quan niệm cho rằng : “ Trong tình yêu nếu chấp nhận quan hệ tình dục với người yêu thì tình yêu mới bền vững”em có đồng ý với ý kiến này hay không ? Tổ 2: Hậu qủa của yêu sớm và quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên. - Yêu sớm gây ra những hệ lụy gì? - Thế hệ trước,người ta quan niệm chỉ quan hệ tình dục sau khi kết hôn. Hiện nay xu hướng quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng tăng, theo em nguyên nhân là do đâu? - Ở tuổi vị thành niên có nên quan hệ tình dục không? Tổ 3: Kĩ năng phòng chống xâm hại tình dục và Quan hệ tình dục sớm: - Phải làm gì để tránh quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên ? - Hậu quả của việc quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên? - Các biện pháp an toàn tình dục mà em biết? Tổ 4: Tảo hôn và hệ lụy của nó -Tảo hôn là gì? -Tảo hôn có vi phạm pháp luật không? -Tảo hôn gây ra những hậu quả gì? * Sau khi học sinh thảo luận giáo viên thuyết trình những nội dung cơ bản trên máy chiếu kèm những hình ảnh về hệ lụy tình yêu học đường, nhấn mạnh những nội dung quan trọng. Đặc điểm tình yêu học trò Tình yêu học trò là thứ tình cảm khác giới cuốn hút nhau một cách mãnh liệt từ những cái cảm tính bên ngoài. Đó là thứ tình cảm trong sáng, thuần khiết và lí tưởng., họ rất nhạy cảm Hình ảnh minh họa Tình yêu lứa tuổi học trò ẩn chứa sâu bên trong nó là tình bạn, sự đồng cảm sẻ chia với nhau. Tình yêu ở lứa tuổi học trò nó sẽ có những mặt lợi nhất định sau: Nếu như biết định hướng rõ ràng, và thông minh khi yêu thì tình yêu ở thời điểm tuổi học trò có động lực rất lớn trong việc giúp cả hai bạn tiến bộ hơn trong học tập. Vì yêu nên bạn sẽ luôn có cảm giác cần cố gắng, hoặc có chút gì đó cạnh tranh để không muốn thua kém người ấy. Chính cảm giác vui vẻ, hạnh phúc trong tình yêu giúp cả hai luôn cảm thấy phấn chấn, yêu đời. Tình yêu tuổi học trò rất đẹp, không toan tính, không vụ lợi. Khi yêu cả hai có thể giúp đỡ nhau mọi thứ trong cuộc sống, từ việc học hành đến những vấn đề nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. (Hình ảnh minh họa) Tình cảm của học sinh lúc này chỉ là cảm giác thích nhau đơn thuần mà thôi. Tuyệt nhiên họ không thể định nghĩa được yêu là gì, chỉ thấy thích thích và thế là yêu thôi. Vì cảm xúc nhất thời và nhận thức chưa chín chắn, chưa ổn định nên tình cảm rất dễ thay đổi, dễ dàng chia tay sau một thời gian ngắn. Thực trạng về tình yêu học trò hiện nay. Ở lứa tuổi này nhiều bạn còn ngộ nhận giữa tình bạn và tình yêu. Có bạn yêu đơn phương âm thầm chịu đau khổ vì choáng ngợp trước một thần tượng nào đó mà mình tôn thờ. Đó là thứ tình yêu sét đánh. Nó mau đến và cũng mau tan như một tia chớp lóe lên trong tâm hồn. Có bạn ôm mộng yêu một sao ca hát, hoặc cầu thủ nổi tiếng nào đó. Lại có bạn chạy theo các chàng công tử con nhà giàu để thỏa mãn thú ăn chơi Hôn nhau lại là chuyện quá bình thường, tình yêu phải gắn liền với tình dục. (Ảnh minh họa) Sự tò mò trở thành nỗi ám ảnh và khát khao được thử nghiệm cùng với quan niệm "thoáng" trong tình yêu dẫn đến cách sống buông thả, dễ dãi. Các bạn trai trở nên cuồng nhiệt và liều lĩnh, trong khi các bạn gái lại ở thế thụ động, dễ bị xiêu lòng. Và bi kịch “thử nghiệm” từ những mối tình học trò ấy là hậu quả của việc có thai ngoài ý muốn. Yêu như là cách để khẳng định lối sống, chứng tỏ bản thân của thế hệ 9X. Có những cuộc tình tay ba, tay tư ở tuổi học trò dẫn đến ghen tuông, trả thù một cách hèn hạ, mù quáng. Rồi có bạn bỏ nhà đi bụi, sống kiểu một túp lều tranh, hai quả tim vàng ở một phương trời nào đó. Xót xa hơn là có bạn lao vào tình yêu như con thiêu thân, sớm ăn chơi sa đọa, để rồi làm bạn với xì ke, ma túy, mãi dâm, HIV/AIDS và bao căn bệnh khác, và khi tỉnh ra thì đã quá muộn. Hệ lụy của tình yêu học đường. Ở lứa tuổi mới lớn, sự phát triển tâm lý lại đặt ra cho các bạn một thách đố: Bản năng giới tính và những phản ứng sinh lý khá phức tạp và mạnh mẽ. Nếu cộng thêm tác động xấu của môi trường (phim ảnh, sách báo “đen”) thì từ những rung cảm đầu đời sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc: 1. Sao nhãng việc học hành Khi yêu ở tuổi học sinh, nếu cả hai biết đặt việc học
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giao_duc_gioi_tinh_nham_han_che_he_luy_tinh_yeu_hoc_duo.doc