SKKN Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy năng lực tư duy logic của học sinh khi học bài 17 ôn tập chương – Môn Lịch sử 7

SKKN Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy năng lực tư duy logic của học sinh khi học bài 17 ôn tập chương – Môn Lịch sử 7

 Lịch sử là một môn khoa học nghiên cứu về quy luật hoạt động, phát triển của xã hội loài người. Lịch sử cung cấp cho thế hệ trẻ những hiểu biết về quá khứ, thông qua bài dạy lịch sử người thầy có thể giúp học sinh hiểu được sự phát triển của xã hội loài người, sự hưng thịnh, suy vong của một quốc gia cũng như những giá trị lịch sử, văn hóa của một dân tộc hay lịch sử của nhân loại. Trên cơ sở đó, người thầy có thể giáo dục cho học sinh lòng yêu quê hương đất nước, niểm tự hào, tự tôn dân tộc, tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại để giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc.

 Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp- chủ tịch danh dự Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã viết: Lịch sử không chỉ trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới mà còn giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

 Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ, nguyên Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nói: “Có lịch sử mới có tương lai. Học lịch sử để dạy các em biết, tổ tiên ông cha ta đã lập quốc, xây dựng, bảo vệ tổ quốc như thế nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Còn chúng ta, nếu không quan tâm đến lịch sử là có tội với tổ tiên ”.

 Vì thế lịch sử có vai trò quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn lịch sử có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm tư tưởng, tình cảm cho học sinh, góp phần hình thành nên những kiến thức cơ bản và quan trọng nhất là hình thành nhân cách con người, chuẩn bị cho các em một hành trang để bước vào đời hoặc học lên những bậc học cao hơn. Đó cũng chính là chiếc chìa khóa mở cửa cho tương lai.

 

doc 22 trang thuychi01 6702
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy năng lực tư duy logic của học sinh khi học bài 17 ôn tập chương – Môn Lịch sử 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH
TRƯỜNG THCS ĐỊNH TIẾN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC TƯ DUY LOGIC CỦA HỌC SINH KHI HỌC BÀI 17 ÔN TẬP CHƯƠNG – MÔN LỊCH SỬ 7
 Người thực hiện: Trịnh Thị Hồng
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THCS Định Tiến
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử
YÊN ĐỊNH, NĂM 2019
 MỤC LỤC
Nội dung
Trang
A. Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
1
1
2
2
3
 MỤC LỤC 
 MỤC LỤC
A. Mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
2
2
3
3
4
B. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
 I. Cơ sở lí luận của vấn đề 
 II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 
 III. Giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện:	
1. Giải pháp:
2.Biện pháp thực hiện:
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 
5
5-6
 6
 6
7-17
17-18
C. Kết luận.
I. Kết luận
II. Kiến nghị
18
 18
 19
Tài liệu tham khảo
 20
Danh mục sáng kiến của các năm
 21
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
 Lịch sử là một môn khoa học nghiên cứu về quy luật hoạt động, phát triển của xã hội loài người. Lịch sử cung cấp cho thế hệ trẻ những hiểu biết về quá khứ, thông qua bài dạy lịch sử người thầy có thể giúp học sinh hiểu được sự phát triển của xã hội loài người, sự hưng thịnh, suy vong của một quốc gia cũng như những giá trị lịch sử, văn hóa của một dân tộc hay lịch sử của nhân loại. Trên cơ sở đó, người thầy có thể giáo dục cho học sinh lòng yêu quê hương đất nước, niểm tự hào, tự tôn dân tộc, tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại để giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc. 
 Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp- chủ tịch danh dự Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã viết: Lịch sử không chỉ trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới mà còn giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
  Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ, nguyên Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nói: “Có lịch sử mới có tương lai. Học lịch sử để dạy các em biết, tổ tiên ông cha ta đã lập quốc, xây dựng, bảo vệ tổ quốc như thế nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Còn chúng ta, nếu không quan tâm đến lịch sử là có tội với tổ tiên”. 
 Vì thế lịch sử có vai trò quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn lịch sử có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm tư tưởng, tình cảm cho học sinh, góp phần hình thành nên những kiến thức cơ bản và quan trọng nhất là hình thành nhân cách con người, chuẩn bị cho các em một hành trang để bước vào đời hoặc học lên những bậc học cao hơn. Đó cũng chính là chiếc chìa khóa mở cửa cho tương lai.
 Để làm được điều đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học, đã tổ chức nhiều lớp chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học, nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giảng dạy. Trong việc đổi mới phương pháp dạy học, có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau, song điều cơ bản là làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động, tự học và sáng tạo của học sinh là quan trọng nhất.
 Tuy nhiên việc dạy và học lịch sử có một số khó khăn nhất định. Lịch sử là một môn học mà đặc trưng của nó chỉ toàn là những sự kiện, ngày tháng, địa danhNó không thể đem ra thí nghiệm, so sánh một cách cụ thể như Hoá học, Vật lý, ngôn ngữ lại không mượt mà, xúc cảm như Văn học Cho nên, hiện nay bộ môn lịch sử vẫn chưa được nhiều giáo viên chú trọng đầu tư nên hiệu quả giờ học chưa cao, giờ học vẫn còn nặng nề, khô khan, khó gây hứng thú cho người học, người nghe.
 Bên cạnh đó thì lịch sử cũng có những thuận lợi nhất định. Môn lịch sử là môn học tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động của con người, về sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người, nghiên cứu về lịch sử. Do đó, có thể nói là do con người tạo ra cho nên nó sẽ mang những đặc điểm nhất định như tính bất ngờ, bí mật, sự hồi hộp, gay cấn, sáng tạo, ý nghĩacủa những diễn biến sự kiện, hiện tượng hay vấn đề lịch sử. Do đó, người thầy khi dạy lịch sử phải biết phát huy, biến thuận lợi đó thành sức mạnh, ưu thế của mình khi lên lớp. Phải lôi cuốn, tạo hứng thú học tập và sự yêu thích môn học cho học sinh. Có vậy chúng ta mới nâng cao được chất lượng dạy và học bộ môn.
 Nắm rõ về những khó khăn và thuận lợi đó, bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, suy nghĩ để tìm cách đổi mới việc dạy và học nhằm gây sự hứng thú, thu hút các em, làm cho các em đều yêu thích giờ học của mình. Với cấu tạo của chương trình lịch sử lớp 7 sau mỗi chương đều có tiết ôn tập. Hơn nữa, là học sinh lớp 7 lứa tuổi rất năng động, thích thể hiện, muốn khẳng định mình trước thầy cô và các bạn nên hoàn toàn có khả năng thực hiện tốt một số kĩ năng, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử trong nhà trường hiện nay cũng như khơi dậy trong học sinh niềm yêu thích, say mê môn lịch sử. Để làm được điều đó mỗi giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn, hình thành cho các em hệ thống kiến thức, kỹ năng tổng hợp là một việc làm khó, đòi hỏi người thầy phải thực hiện thường xuyên, liên tục không ngừng nghỉ. Đặc biệt trong các tiết ôn tập chương hoặc ôn tập cuối năm. 
 Từ thực tế đó, bản thân tôi đã suy nghĩ và tìm cách đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng một số kỹ năng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực tư duy lo gic của học sinh khi học tiết ôn tập lịch sử và thấy hiệu quả. Chính vì thế tôi xin mạnh dạn trình bày đề tài: “Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, năng lực tư duy logic của học sinh khi học bài 17 ôn tập chương của môn lịch sử 7”. Với hy vọng đây là một cách dạy học hiệu quả trong các tiết ôn tập giúp các em tích cực, chủ động và ngày càng yêu thích môn học lịch sử hơn.
II. Mục đích nghiên cứu:
 Khi nghiên cứu đề tài này, bản thân tôi muốn giới thiệu tới các đồng nghiệp- những người cùng chuyên môn với tôi tham khảo thêm một số kỹ năng khi dạy các bài ôn tập, bởi đây là dạng bài tổng hợp, khó thiết kế và thường khô khan. Mặt khác, các kiến thức trong bài ôn tập thường đã dạy trước đó, học sinh có thể còn nhớ nhưng ngại trả lời, nếu giáo viên không biết cách khái quát, khai thác và đưa ra những hình thức tổ chức phù hợp nhằm phát huy tính tích cực,chủ động của học sinh thì sẽ khó gây được sự hứng thú trong môn học, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và kém hiệu quả.
III. Đối tượng nghiên cứu:
 Có thể nói, đổi mới phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo và tích cực để học sinh chủ động nắm bắt kiến thức được coi là nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này, trước hết, mỗi giáo viên phải tạo được hứng thú cho học sinh để các em say mê, yêu thích và sau đó là tự giác học tập. Qua thử nghiệm, tôi thấy cách dạy này có nhiều ưu điểm, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong các tiết ôn tập. Vì vậy tôi mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm này cho đồng nghiệp với hy vọng sẽ đem lại hiệu quả cao trong các tiết ôn tập.
 Nội dung nghiên cứu là bài 17 ôn tập chương và đối tượng là học sinh 2 lớp 7A và 7B.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
 Trong đề tài này bản thân tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phát vấn.
- Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp thảo luận nhóm, cặp đôi.
- Phương pháp thực nghiệm đối chứng.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận:
 Hiện nay, vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đang được ngành giáo dục quan tâm hàng đầu. Việc áp dụng, thử nghiệm các phương pháp dạy học mới cũng đã được thực hiện trong các trường học, tuy nhiên mức độ còn chưa đồng bộ, còn nặng về phương pháp cũ. Sử dụng phương pháp dạy học mới trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng nhằm “phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực tư duy logic của học sinh”, “bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh. Vì thế, giáo viên cần mạnh dạn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy để gây hứng thú trong học tập cho các em và đem lại hiệu quả cao. 
 Đặc trưng của môn lịch sử là những gì diễn ra trong quá khứ, tồn tại một cách độc lập, khách quan với ý nghĩa của con người. Vì thế, dạy học lịch sử là tái tạo lại “hiện thực quá khứ lịch sử” đó cho người học thông qua những chứng cứ, vật chất, dấu vết lịch sử để lại. Mục đích cuối cùng là giúp cho người học có thể hình dung được về con người và hoạt động của con người trong bối cảnh thời gian, không gian lịch sử nhất định. Vậy để thực hiện mục đích đó, ngoài việc cung cấp kiến thức cho các em trên lớp, giáo viên nên hướng dẫn để các em tự tìm ra kiến thức, mở rộng hiểu biết của mình bằng nhiều cách khác nhau và tự các em chuyền tải thông tin đó đến cho bạn bè. Khi đó các em sẽ càng say mê tìm tòi, nghiên cứu dần dần hình thành ở các em niềm yêu mến môn học là nhiệm vụ rất to lớn nhưng đầy vẻ vang của người giáo viên.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
1. Thực trạng chung của môn học: 
 Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ, qua môn học các em có những hiểu biết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, để từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người.
 Mặc dù có vai trò chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay, việc dạy học lịch sử chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn lịch sử, xem nhẹ và coi đây là một môn phụ. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế. Chính vì thế đã có những nhận thức sai lệch về vị trí, chức năng của bộ môn lịch sử trong đời sống xã hội dẫn đến sự giảm sút chất lượng bộ môn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhớ nhầm, lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều trường hiện nay. 
 2.Về phía giáo viên:
 Trên đây là thực trạng chung của bộ môn khoa học lịch sử, một bộ môn thường gắn liền với những sự kiện lịch sử, những con số khô khan và khó nhớ. Song cơ bản không phải do bản thân môn lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ môn khoa học, cần phải có sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa tái hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề. Vấn để đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng công nghệ thông tin hay sử dụng đồ dùng, phương tiện trực quan vào dạy học còn chưa thường xuyên, liên tục. Do đó chất lượng giờ dạy còn chưa cao.Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Đặc biệt là các tiết ôn tập, giáo viên thường nêu qua loa vì cho rằng các kiến thức này đã học rồi nên không chú trọng đầu tư soạn giáo án, điều này vô tình khiến học sinh càng thêm chán nản, giờ học không hiệu quả. 
 Trước thực tế đó, một yêu cầu đặt ra cho giáo viên dạy bộ môn lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử, kích thích sự hứng thú học tập cho học sinh, khắc phục lối dạy truyền thống, lấy giáo viên là trung tâm. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên không ngừng nghiên cứu, tìm tòi và đưa ra cách dạy hay, phải thay đổi phương pháp dạy học, đưa ra một số kỹ năng nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong tiết ôn tập nhằm khắc sâu thêm kiến thức môn học. Đồng thời giúp các em tích cực, chủ động, tự tin và yêu mến môn học hơn. 
 Trong năm học 2017-2018, tiến hành khảo sát chất lượng học sinh hai lớp 7 khi đổi mới phương pháp dạy học, chưa áp dụng một số kỹ năng nhằm phát huy tính tích cực chủ động, năng lực tư duy logic của học sinh vào bài học với nội dung khảo sát dưới dạng một bài kiểm tra trắc nghiệm lịch sử. Kết quả đạt được như sau:
Lớp
Sĩ số
Xếp loại 
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7A
36
2
5,6
9
25
18
50
7
19,4
7B
35
3
8,6
11
31,4
16
45,7
5
14,3
Tổng
71
5
7,0
20
28,2
34
47,9
12
16,9
III. Giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện:	
1. Giải pháp:
 Bài 17 thuộc tiết 31 theo phân phối chương trình lịch sử 7 là một bài ôn tập chương II và III. Đây là một dạng bài khó bao gồm kiến thức của cả hai chương từ thời Lý đến thời thời Trần, Hồ (1009-1407). Với lượng kiến thức nhiều mà thời giai lại hạn chế. Do đó, giáo viên không thể sử dụng việc miêu tả, tường thuật hay thuyết trình để dạy lại lịch sử. Tiết ôn tập đòi hỏi giáo viên phải có những kỹ năng, phương pháp tổng hợp cao hơn so với những tiết cung cấp kiến thức mới. Thông thường lâu nay giáo viên chưa khai thác và phát huy hết tác dụng của dạng bài này. Phần lớn chúng ta mới chỉ làm một công việc đơn giản là ôn lại, liệt kê lại những kiến thức đã học trong các chương, phần mà chưa chú ý đến việc rèn luyện hệ thống tư duy, kỹ năng học tập lịch sử cho học sinh. 
 Xuất phát từ đặc điểm đó, tôi đã tiến hành đưa ra những giải pháp cho việc thực hiện đề tài như sau:
- Giải pháp thứ nhất: Xác định nội dung ôn tập và những kỹ năng cần luyện cho học sinh.
- Giải pháp thứ hai: Chọn đồ dùng, phương tiện trực quan cần thiết và phù hợp cho tiết học.
- Giải pháp thứ ba: Xác định phương pháp dạy học phù hợp, định hướng thiết kế kiểm tra, đánh giá.
2. Biện pháp thực hiện:	
2.1. Xác định nội dung ôn tập và những kỹ năng cần luyện cho học sinh.
 Bài 17 – Ôn tập chương II và chương III là một bài có lượng kiến thức ôn tập rất nhiều, gồm 7 bài. Trong thời lượng 45 phút, để thực hiện được mục tiêu bài học thì tôi không thể tiến hành một cách dàn trải bằng cách điểm lại từng sự kiện, hay dạy lại kiến thức cho học sinh. Do đó, tôi đã xác định những nội dung chính cơ bản cần ôn tập và luyện những kỹ năng cho học sinh như sau :
* Những nội dung chính:
 - Thời Lý- Trần, nhân dân ta đã phải đương đầu với những cuộc xâm lược nào? (thời gian, lực lượng xâm lược).
- Diễn biến các cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, chống quân xâm lược Mông- Nguyên thời Trần.
+ Thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi cuộc kháng chiến.
+ Đường lối chống giặc trong mỗi cuộc kháng chiến.
+ Những tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước, bất khuất trong mỗi cuộc kháng chiến.
+ Một vài ví dụ về tinh thần đoàn kết đánh giặc trong mỗi cuộc kháng chiến của dân tộc.
+ Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lich sử của cuộc kháng chiến thời Lý - Trần.
* Các kỹ năng cần luyện: 
+ Kỹ năng khái quát, hệ thống hóa kiến thức, lập bảng thống kê (thông qua phương pháp thảo luận nhóm).
+ Kỹ năng tư duy, suy luận logic (thông qua các bài tập dưới dạng trò chơi “ai trả lời nhanh”).
+ Kỹ năng nhận biết các nhân vật, sự kiện lịch sử gắn với các câu nói nổi tiếng thời Lý, Trần (thể hiện dưới dạng trò chơi “giải mã ô chữ”).
+ Kỹ năng phân tích, nhận định lịch sử (tổ chức trò chơi miếng ghép lịch sử)
2.2 Xác định đồ dùng, phương tiện trực quan cần thiết, phù hợp cho tiết học.
 Từ việc xác định được những kỹ năng cần luyện và nội dung cơ bản của tiết học, tôi đã tiến hành xác định những đồ dùng, phương tiện trực quan cần thiết cho tiết học như sau: 
 Ở phần trả lời câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất: Thời Lý – Trần, nhân dân ta đã phải đương đầu với những cuộc xâm lược nào? 
 Để giúp học sinh trả lời được câu hỏi này, giáo viên có thể trình chiếu một số hình ảnh liên quan đến các cuộc xâm lược mà nhân dân ta phải đương đầu ở thời Lý, Trần như: Hình 21(SGK) Lược đồ trận chiến tại phòng tuyến Như Nguyệt; Hình 29(SGK) Hình vẽ quân Mông Cổ; Hình 30: Lược đồ diễn biến cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông Cổ(1258); Hình 31: Lược đồ diễn biến cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân Nguyên(1285); Hình 32: Lược đồ diễn biến cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên (1287-1288); Hình 33: Lược đồ chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.
 Từ các hình ảnh về các trận chiến với quân giặc, học sinh có thể dựa vào các lược đồ này để trả lời câu hỏi thứ nhất trong phần nội dung chính của bài ôn tập.
2.3: Xác định phương pháp dạy học phù hợp, định hướng thiết kế kiểm tra, đánh giá.
 Từ việc xác định được những nội dung chính của bài ôn tập, tôi thấy cần phải xác định được phương pháp dạy học sao cho phù hợp nhằm khái quát hóa kiến thức và luyện các kỹ năng học tập bộ môn cho học sinh. Trong một thời gian ngắn 45 phút, giáo viên rất khó có thể thực hiện hết được yêu cầu đề ra của tiết học. Do vậy, tối quyết định chọn cách giải quyết là đưa ra những bài tập dưới dạng trò chơi ở nhiều hình thức khác nhau để phát huy tính tích cực,chủ động của học sinh. Với phương pháp này vừa tạo nên tính tích cực, chủ động, mạnh dạn trong suy nghĩa và hành động. Đồng thời giúp các em khắc sâu kiến thức mà không cảm thấy nặng nề, nhàm chán, từ đó các em sẽ yêu thích môn học hơn.
 Để phát huy tốt, hiệu quả của trò chơi trả lời câu hỏi dưới các dạng bài tập, tôi kết hợp với một số đồ dùng, phương tiện dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin và một số phương pháp như phân tích, giải thích, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, cặp đôi. là những phương pháp chính, chủ đạo của tiết dạy.
3. Tiến hành thực hiện:
 Trong đề tài này, tôi không trình bày theo trình tự của một giáo án mà xin phép được cắt ngang từng nội dung của tiết ôn tập theo các kỹ năng tôi đã rèn luyện cho học sinh trong tiết học.
 Tôi xin thiết kế bài học như sau:
3.1 Luyện kỹ năng hệ thống hóa kiến thức, lập bảng thống kê.
 Câu hỏi 1: Thời Lý, Trần nhân dân ta đã phải đương đầu với những cuộc xâm lược nào?
 Giáo viên nêu câu hỏi học sinh suy nghĩ trả lời.
 HS: Thời Lý: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077)
 Thời Trần: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông –Nguyên (1258-1285)
 GV: Nguyên nhân nào thúc đẩy quân Tống và quân Mông Nguyên xâm lược nước ta?
 HS trả lời: * Quân Tống: 
 - Xâm lược Đại Việt để giải quyết khó khăn trong nước. 
 - Muốn mở rộng lãnh thổ và biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc.
 * Quân Mông –Nguyên:
 - Muốn khẳng định sức mạnh của mình làm nước khác phải lo sợ.
 - Thôn tính các nước nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ.
GV nhận xét và chốt ý: Từ xa xưa, các triều đại phong kiến phương Bắc (Trung Quốc) luôn có âm mưu xâm lược nước ta, muốn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc, nhưng kết qủa đều bị thất bại. 
 Sang thế kỷ XIII, quân Mông Cổ hùng mạnh và hiếu chiến đem quân đi xâm lược và làm bá chủ ở nhiều nước châu Á, châu Âu.
 Năm 1257, vua Mông Cổ tiến hành xâm lược Nam Tống, nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc. Để thực hiện được âm mưu đó, vua Mông Cổ cho quân xâm lược Đại Việt, sau khi chiếm được Đại Việt sẽ làm bàn đạp tấn công tiêu diệt Nam Tống.
 Ở câu hỏi thứ 2: Diễn biến các cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, chống Mông – Nguyên thời Trần, giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập dưới dạng hoàn thành các sự kiện lịch sử về thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống thời Lý và quân xâm lược Mông – Nguyên thời Trần.
 Thời gian
 Sự kiện
Tháng 10 năm 1075
Cuối năm 1076
Tháng 1/1077
Cuối mùa xuân 1077
Tháng 1/1258
Ngày 29/1/1258
Cuối tháng 1/1285
Tháng 5/1285
Cuối tháng 12/1287
Cuối tháng 1/1288
Đầu tháng 4/1288
 Sau khi học sinh hoàn thành bài tập, giáo viên nhận xét và đánh giá cho điểm đối với những học sinh trả lời đúng.
 ĐÁP ÁN
 Thời gian
 Sự kiện
Tháng 10 năm 1075
Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản tấn công đất Tống, thực hiện phương 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_doi_moi_phuong_phap_giang_day_nham_phat_huy_nang_luc_tu.doc