SKKN Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7

SKKN Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7

Môn Lịch sử là bộ môn có một vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vì đây là bộ môn giúp cho học sinh có thể hiểu biết về lịch sử của dân tộc và của thế giới. Qua đó sẽ góp phần hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người. Tuy nhiên do đặc thù bộ môn đây là môn học nặng về lí thuyết, sự kiện, ngày tháng nên khi học sinh học thường chán và khó nhớ. Trong những năm gần đây, do sự phát triển của kinh tế thị trường nên học sinh thường thích chọn những môn khoa học tự nhiên để thi đại học thì cơ hội việc làm sẽ thuận lợi hơn. Điều đó, dẫn tới một hệ quả là thi tốt nghiệp, rồi đại học chất lượng môn lịch sử đang ở mức báo động.

Vậy giải pháp gì để học sinh có hứng thú với môn học này, có lẽ rằng một giải pháp được nhiều thầy cô sử dụng đó là sử dụng các đồ dùng trực quan, bản đồ, lược đồ trong các tiết dạy của mình. Những đồ dùng này khi sử dụng cũng có rất nhiều hiệu quả nhưng khi tìm kiếm, di chuyển và in ấn có lẽ cũng có những điều phải lưu tâm. tại sao chúng ta không thử kết hợp với công nghệ thông tin để tạo ra những đồ dùng dạy học tự tạo vừa có thể tiết kiệm, vừa có thể lưu giữ và chỉnh sữa mỗi khi cần và đặt biệt có thể chứa được một khối lượng kiến thức khổng lồ mà giáo viên muốn truyền tải cho học sinh.

 

doc 20 trang thuychi01 23336
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 Trang
1.MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 
1.1. Lý do chọn đề tài .................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................2 
1.3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................. ............................. 2
1.5. Những điểm mới của sáng kiến .......................................................................3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN ................................................................................. 3
2.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 3
2.2. Thực trạng của vấn đề .....................................................................................4
2.3. Giải pháp thực hiện ....................................................................................... 5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến ..................................................................................15
2.4.1. Hiệu quả .................................................................................................... 15
2.4.2. Bài học kinh nghiệm ................................................................................. 16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ..............................................................................17
3.1. Kết luận ............................................................................... ..................... 17
3.2. Kiến nghị ................................................................................................... 17
1. MỞ ĐẦU
Môn Lịch sử là bộ môn có một vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vì đây là bộ môn giúp cho học sinh có thể hiểu biết về lịch sử của dân tộc và của thế giới. Qua đó sẽ góp phần hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người. Tuy nhiên do đặc thù bộ môn đây là môn học nặng về lí thuyết, sự kiện, ngày tháng nên khi học sinh học thường chán và khó nhớ. Trong những năm gần đây, do sự phát triển của kinh tế thị trường nên học sinh thường thích chọn những môn khoa học tự nhiên để thi đại học thì cơ hội việc làm sẽ thuận lợi hơn. Điều đó, dẫn tới một hệ quả là thi tốt nghiệp, rồi đại học chất lượng môn lịch sử đang ở mức báo động.
Vậy giải pháp gì để học sinh có hứng thú với môn học này, có lẽ rằng một giải pháp được nhiều thầy cô sử dụng đó là sử dụng các đồ dùng trực quan, bản đồ, lược đồ trong các tiết dạy của mình. Những đồ dùng này khi sử dụng cũng có rất nhiều hiệu quả nhưng khi tìm kiếm, di chuyển và in ấn có lẽ cũng có những điều phải lưu tâm. tại sao chúng ta không thử kết hợp với công nghệ thông tin để tạo ra những đồ dùng dạy học tự tạo vừa có thể tiết kiệm, vừa có thể lưu giữ và chỉnh sữa mỗi khi cần và đặt biệt có thể chứa được một khối lượng kiến thức khổng lồ mà giáo viên muốn truyền tải cho học sinh.
1.1. Lý do chọn đề tài. 	
	Trong dạy học lịch ở trường phổ thông, yêu cầu học sinh nắm vững các sự kiện lịch sử là một vấn đề rất quan trọng. Ngoài việc nhớ thời gian diễn ra sự kiện, hiểu được tính chất, diễn biến, kết quả và những việc làm của nhân vật, các em còn phải nắm vững kiến thức về không gian xảy ra sự kiện lịch sử. Bởi vì không một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra lại không gắn liền với một thời gian, không gian nhất định. Không nắm được thời gian, không gian diễn ra sự kiện lịch sử, học sinh sẽ “hiện đại hóa” lịch sử. 
	Đặc trưng cơ bản của việc dạy học lịch sử là học sinh không trực tiếp quan sát đối tượng nhận thức, không thể trực quan sinh động các sự kiện hiện tượng lịch sử. Vì vậy, tái tạo lại hình ảnh lịch sử là một yêu cầu quan trọng và rất cần thiết trong dạy học bộ môn. Bởi lẽ, học sinh không tái hiện được hình ảnh diễn ra sự kiện, hiện tượng cơ bản thì sự hiểu biết của các em về sự kiện, hiện tượng lịch sử trở nên què quặt, thậm chí sai lệch thiếu chính xác. Khi đó, các em cũng không có hứng thú học tập lịch sử.
	Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay, việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ môn đang là mối quan tâm hàng đầu. Riêng với bộ môn lịch sử, sử dụng đồ dùng trực quan đặc biệt là bản đồ đã và đang có đóng góp không nhỏ vào việc phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
	Lịch sử Việt Nam lớp 7 là thời kì chứng kiến nhiều biến động lớn lao của dân tộc với hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Tống, ba lần chống quân xâm lược Mông – NguyênCác em phải tiếp xúc ngay bản đồ, lược đồ trong những bài học đầu tiên của phần lịch sử Việt Nam lớp 7. Tuy nhiên, ở lớp 6, do hạn chế của việc biên soạn sách giáo khoa, cũng như tài liệu, bản đồ, lược đồ nên học sinh ít được làm quen với phương pháp khai thác và hiệu quả của việc sử dụng bản đồ để khai thác diễn biến các cuộc kháng chiến, các cuộc tiến công, các trận đánhcòn rất hạn chế. Cho nên lên đến lớp 7, học sinh sẽ không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng khi tiếp cận với bản đồ, lược đồ. Mặt khác, nếu giáo viên không có phương pháp khai thác phù hợp và hiệu quả sẽ làm giảm đi hứng thú học tập bộ môn của học sinh, kéo theo đó chất lượng học tập của các em cũng suy giảm.
	Mặt khác, để đảm bảo yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, người giáo viên phải là người luôn tự tìm tòi, sáng tạo, chủ động truyền tải kiến thức theo hướng tích cực trên cơ sở “lấy học sinh làm trung tâm”,đổi mới các phương pháp, cách thức tổ chức dạy học, trong đó có cả việc đổi mới sử dụng bản đồ, lược đồ vào giảng dạy lịch sử.
	Về phía học sinh, dường như lại không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó chỉ là môn phụ, không quan trọng, nội dung kiến thức quá Dài, khó nhớ, nhiều sự kiện. Và cả ngoài xã hội cũng không xem trọng môn học này.
	Chính vì lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7” nhằm tạo ra môi trường tương tác đa dạng hấp dẫn giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau đồng thời gây hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo ở học sinh. Góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử trong nhà trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu.	
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của hệ thống bản đồ, lược đồ trong dạy học lịch sử , bản thân tôi là một giáo viên bộ môn Lịch sử ở trường THCS, trực tiếp giảng dạy chương trình Lịch sử lớp 7, tôi luôn suy nghĩ và xác định cho mình phải làm thế nào để khai thác có hiệu quả hệ thống bản đồ, lược đồ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Trong khuôn khổ đề tài này, tôi xin đưa ra một số biện pháp khai thác, sử dụng bản đồ, lược đồ trong dạy học Lịch sử lớp 7,  nhằm nâng cao chất lượng môn học, phát triển năng lực tư duy và hứng thú học lịch sử ở học sinh lớp 7. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
	- Đối tượng nghiên cứu: nội dung chương trình Lịch sử lớp 7, các bản đồ, lược đồ liên quan đến nội dung đề tài.
	- Phạm vi: Do điều kiện thời gian và cơ sở vật chất có giới hạn, ở đề tài này tôi xin trình bày một số biện pháp khai thác bản đồ, lược đồ liern quan đến môn lịch sử lớp 7 như một dẫn chứng sinh động cho kinh nghiệm sử dụng có hiệu quả bản đồ, lược đồ của bản thân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện bài viết này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
                   - Nghiên cứu lý thuyết.
                   - Quan sát sự phạm.
                   - Thực nghiệm sư phạm.
                   - Phương pháp thống kê.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
	- Bản thân đã áp dụng đề tài vào giảng dạy Môn Khoa học xã hội lớp 7 - mô hình “Trường học mới” tại trường THCS Nga An, năm học 2016 – 2017.
	- Hướng dẫn học sinh quy trình vẽ bản đồ, lược đồ lịch sử.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Căn cứ nghị quyết Trung ương IV khóa VII(1/1993), nghị quyết Trung ương II khóa VIII(12/1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục năm 2005, cụ thể hóa trong các chỉ thị sổ 14(4/1999).
	Luật giáo dục điều 28.2 đã ghi: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
	Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, tình cảm, đạo đức, phát triển năng lực nhận thức và hành độngcho học sinh.Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn Lịch sử chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì thế, việc đổi mới một cách toàn diện về nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử là rất cần thiết.
 Thực tiễn đã khẳng định hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định: như chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử  Phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng lực sư phạm của giáo viên và đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Đồ dùng trực quan, bản đồ, lược đồ được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan sẽ kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “ Tai nghe – Mắt thấy.” Tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại, nếu không sử dụng đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán xử lý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu, thậm chí hạn chế phát triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh
Xuất phát từ mục tiêu đó, những năm gần đây bộ môn lịch sử ở trường phổ thông đã có nhiều đổi mới trong các khâu cơ bản của quá trình dạy học: đổi mới việc sử dụng SGK; đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá; đổi mới phương phương pháp dạy dọc – trong đó bao gồm cả đổi mới việc sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học lịch sử, nhất là việc sử sụng bản đồ, lược đồ để dạy môn lịch sử lớp 7. Một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố, đổi thay của dân tộc. Từ đó nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh. Đồng thời nâng cao chất lượng học tập bộ môn của học sinh. Cũng từ đó giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, sự yêu thích, hứng thú học môn lịch sử và thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của nhiều người cho rằng dạy học lịch sử là “khô khan”, “cứng nhắc”, “thiếu sinh động” và “không có hồn”
2.2. Thực trạng của vấn đề:
2.2.1. Thực trạng:
	Thực tế, không phải bất kì một giáo viên nào cũng hiểu hết được tầm quan trọng của việc sử dụng bản đồ , lược đồ vào giảng dạy lịch sử, và biết cách khai thác bản đồ, lược đồ đúng phương pháp. Trong khi đó, một số giáo viên lại than phiền rằng học sinh bây giờ “chán” học lịch sử, “học lệch”, phân biệt môn chính, môn phụPhải chăng, có nhiều giáo viên đã biến bài lịch sử thành bài chính trị lý luận khô khan, trống rống, cứng nhắc, làm cho học sinh căng thẳng, chán nản; Hoặc trình bày bài giảng theo lối thông báo kiến thức, đơn điệu: như dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077)”- giáo viên khai thác các nội dung: Nguyên nhân, Diễn biến, kết quả và ý nghĩa. (Phần dạy diễn biến giáo viên không sử dụng lược đồ để tường thuật và cũng không hướng dẫn học sinh tường thuật trên bản đồ, chỉ cho học sinh đọc lướt một hai lần, rồi ghi : SGK). 
	Như vậy, tình trạng “dạy chay, học chay” vốn là một “thói quen” của nhiều giáo viên dạy lịch sử, kể cả những giáo viên trẻ tuổi mới vào nghề cũng tỏ ra chay lười trong việc chuẩn bị bản đồ, lược đồ trước khi lên lớp. Nếu có sử dụng thì cũng làm cho qua loa, đại khái, chuẩn bị bản đồ lên lớp nhưng không sử dụng, hoặc sử dụng thì rất chiếu lệ, không đúng phương pháp, nguyên tắc nên các sự kiện, hiện tượng lịch sử được học sinh ghi nhớ một cách thụ động, máy móc. Nên hiệu quả cũng không cao thậm chí, phản khoa học. Gây nên tình trạng chán nản, khó hiểu, học sinh mất hứng thú học tập, dẫn đến chất lượng bộ môn bị giảm sút. Trong khi đó, bộ môn lịch sử lớp 7 – phần lịch sử Việt Nam - một giai đoạn lịch sử có nhiều sự kiện to lớn, với nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Việc giúp học sinh nắm vững kiến thức nội dung bài học, hình thành những biểu tượng cụ thể về lịch sửvai trò của bản đồ, lược đồ là rất quan trọng. 
Vậy nên, việc sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học Lịch sử nói chung, vào dạy phần lịch sử lớp 7 nói riêng, được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu quả tích cực trong việc đổi mới việc dạy và học. Nhằm giúp người học hiểu sâu, nhớ lâu các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó, nâng cao chất lượng hiệu quả giờ học, sự hứng thú, niềm say mê học tập bộ môn Lịch sử. 
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng:
	- Do cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều yếu kém: phòng thiết bị, đồ dùng quá chật chội, đồ dùng của các môn xếp chồng chéo lên nhau; Bản đồ, lược đồ thì không đầy đủ, hoặc có một số bản đồ đã quá cũ rách, thậm chí bị thất thoát do giáo viên sử dụng, bảo quản chưa thật tốt và cán bộ phòng thiết bị làm việc chưa nhiệt tình. Hiện tại nhà trường chưa có cán bộ quản lý phòng đồ dùng thiết bị. Nên việc phân loại sắp xếp đồ dùng thiết bị còn rất hạn chế.
	- Nhiều giáo viên khi lên lớp thường có tâm lý “ngại” sử dụng bản đồ, lược đồ, vì mất rất nhiều thời gian chuẩn bị (tìm kiếm, chọn lọc bản đồ, nghiên cứu nội dung bản đồ, nắm rõ yêu cầu nội dung bài học). Vì vậy, nếu có sử dụng thì cũng làm đối phó, chiếu lệ, cho thấy bản thân người giáo viên chưa hết mình trong công tác giảng dạy vì học sinh thân yêu.
	- Về phía gia đình học sinh: Nhiều gia đình chưa quan tâm hết mình đối với việc học tập của con em mình, mải làm ăn kinh tế. Nên có gia đình cả bố và mẹ đều đi làm xa nhà, gửi con cái cho ông bà chăm sóc, không kiểm soát chặt chẽ được việc học tập của con em mình, không có thời gian trò chuyện, động viên con cái học tập. Nhiều phụ huynh học sinh còn có tư tưởng “môn chính’, ‘môn phụ” nên cũng làm ảnh hưởng tới tâm lý học tập của học sinh.
- Về phía học sinh: Đối tượng học sinh lớp 7, do độ tuổi còn nhỏ, ý thức việc học của các em chưa được coi trọng, mục tiêu học tập chưa rõ ràng, lại thiếu sự quan tâm của bố mẹ, nên nhiều em chưa nghiêm túc, chưa chịu khó học bài; Nhiều em có tâm lý học lệch, hoặc chỉ cần học giỏi hai môn Văn, Toán là đủđã ảnh hưởng nhiều đến chất lượng bộ môn lịch sử.
2.2.3. Kết quả của thực trạng:
	Qua điều tra khảo sát cho thấy việc dạy chay, học chay, khai thác kiến thức không đúng phương pháp làm cho học sinh khó nắm bắt sự kiện lịch sử, dẫn tới không hiểu bài, chất lượng bộ môn giảm, học sinh có tâm lý chán học môn Sử.. Điều đó được thể hiện rõ qua kết quả khảo sát cuối năm môn Lịch Sử lớp 7, trường THCS Nga An năm học 2014 – 2015, khi giáo viên dạy lịch sử không sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học, kết quả như sau:
Lớp
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7A
41
4
9.8
11
26.8
15
36.6
10
24.3
1
2.4
7B
39
2
5.1
7
17.9
15
38.5
13
33.3
2
5.1
Tổng
80
6
7.5
18
22.5
30
37.5
23
28.8
3
3.8
Bảng 1: Kết quả khảo sát cuối năm học 2014-2015
2.3. Giải pháp thực hiện:
2.3.1. Nắm vững khái niệm:
	Bản đồ lịch sử là một loại đồ dùng trực quan qui ước có thể giúp học sinh xác định một cách cụ thể thời gian, không gian, nơi xảy ra các sự kiện, hiện tượng và quá trình diễn tiến, vận động của sự kiện, hiện tượng.
	Bản đồ không chỉ giúp học sinh tạo được những biểu tượng chân thực mà còn giúp các em khắc sâu, nhớ lâu kiến thức. Việc sử dụng bản đồ thường xuyên rèn luyện cho học sinh óc quan sát, kĩ năng đọc bản đồ và kĩ năng thực hành.
2.3.2. Đặc điểm của bản đồ lịch sử:
	Bản đồ lịch sử là loại bản đồ đã được loại bỏ nhiều yếu tố của bản đồ địa lý tự nhiên, chỉ đưa vào những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự kiện, hiện tượng lịch sử: sông, núi
	Bản đồ lịch sử bao giờ cũng có đường phân định biên giới rõ ràng, phân định các vùng miền liên quan đến sự kiện, có địa bàn phân bố dân cư, địa danh xảy ra các sự kiện
	Bản đồ lịch sử bao giờ cũng có hệ thống các lí hiệu, ước hiệu thể hiện một cách xác thực nhất những nội dung lịch sử. Những kí hiệu đó phải được đặt ở bảng chú giải và rải rác trên bản đồ.
	Ký hiệu, ước hiệu trong bản đồ lịch sử rất phong phú và mang tính tượng trưng. Nổi bật trong các ký hiệu của bản đồ lịch sử là các loại mũi tên khác nhau, chỉ hướng vận động mà chủ yếu là hướng tấn công hay rút lui của ta và địch có màu sắc khác nhau.
	Màu sắc của bản đồ cũng tuân thủ theo nguyên tắc chung: núi đồi màu vàng, biển – đồng bằng màu xanh
	Đặc điểm màu sắc thể hiện: phía ta các mũi tên bao giờ cũng là màu đỏ hoặc hồng; địch màu đen hoặc xám.
2.3.3. Các loại bản đồ lịch sử:
	Bản đồ lịch sử gồm có hai loại chính: là bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên đề, ở cấp THCS chủ yếu là loại bản đồ chyên đề.
	Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều có liên quan một thời kì lịch sử nhất định trong những điều kiện tự nhiên nhất định: Bản đồ chiến tranh thế giới thứ nhất, Bản đồ chính trị thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai
	Bản đồ chuyên đề: là loại bản đồ đi sâu tìm hiểu diễn biến của các chiến dịch, các trận đánh trong một phạm vi không gian nhất định: Bản đồ chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, Bản đồ chiến thắng Bạch Đằn năm 938
2.3.4.Vai trò của bản đồ, lược đồ trong môn học lịch sử:
	Việc sử dụng bản đồ, lược đồ là cần thiết không thể thiếu được trong điều kiện hiện nay, đem lại nhiều kết quả về mặt giá dưỡng giáo dục và phát triển. Cựu chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã từng nói: “Dạy Địa lý mà không có lược đồ thì không dạy được, dứt khoát là không, dứt khoát là đừng dạy”. Đây là câu tổng kết kinh nghiệm dạy học của các nhà sư phạm nổi tiếng thế giới. Còn đối với dạy học lịch sử thì sao? Học tập lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ để hiểu về hiện tại và hướng tới tương lai. Việc tái tạo bằng cách nào ngoài những phương tiện hiện có của người thầy thì lược đồ, bản đồ giáo khoa là một bộ phận khăng khít không thể tách rời trong dạy học lịch sử, tạo biểu tượng về không gian, thời gian. Hoàn cảnh địa lý diễn ra các sự kiện lịch mà không có lược đồ, bản đồ thì học sinh không thể tiếp thu một cách có khoa học và niềm tin cụ thể. Lược đồ trong SGK được chọn lọc và trình bày những tri thức hết sức cơ bản, là một lượng thông tin đáng kể được phản ánh thông qua ngôn ngữ kí hiệu, giúp học sinh hình dung một cách có cơ sở khoa học làm cho việc phản ánh thực tế lịch sử diễn ra sinh động và đầy đủ giúp cho việc nhận thức lịch sử dễ dàng hơn. Chính vì vậy, môn học lịch sử trong nhà trường luôn gắn bó với lược đồ, bản đồ.
	 Lược đồ, bản đồ là một nguồn tư liệu lịch sử quan trọng giúp cho thầy và trò có khả năng nhìn bao quát các sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Giúp học sinh mở rộng kiến thức, cho phép các em có cách hình thành mối quan hệ nhân quả, phát triển óc tư duy lô gich, hình thành thế giới quan duy vật, xây dựng tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
2.3.5. Các giải pháp cụ thể:
2.3.5.1 Nắm vững nội dung kiến thức bài học:
	Đây là một yêu cầu quan trọng của người giáo viên dạy học bộ môn Lịch sử, trong đó có phần lịch sử Việt Nam lớp 7. Đây là một giai đoạn lịch sử quan trọng của dân tộc, có nhiều sự kiện trọng đại, những biến cố lớn lao của dân tộc. Nếu không nắm vững nội dung kiến thức bộ môn, kiến thức từng bài học, giáo viên rất dễ “hiện đại hóa” lịch sử hoặc xa vào dạy Lịch sử Đảng, hoặc kể chuyện lan man, hoặc trình bày bài giảng theo lối thông báo kiến thức Từ đó, không thể khai thác một cách triệt để những tác dụng to lớn của bản đồ, lược đồ vào dạy các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta trong giai đoạn lịch sử này, biểu tượng về các vị anh hùng gắn liền với những thắng lợi đó sẽ bị mờ nhạt. Ví dụ: khi dạy “Bài 25: Phong trào Tây Sơn”, thực chất là giáo viên phải nhấn mạnh, khẳng định công lao to lớn của 3 người anh em họ Nguyễn, nhất là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ (Quang Trung) với các chiến công: lật đổ các tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trị

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_hinh_thanh_ki_nang_su_dung_ban_do_luoc_do_vao_day_hoc_p.doc