SKKN Tổ chức hoạt động nhóm và các trò chơi trong tiết 31 - Lịch sử 7 - để nâng cao hiệu quả học tập của học sinh

SKKN Tổ chức hoạt động nhóm và các trò chơi trong tiết 31 - Lịch sử 7 - để nâng cao hiệu quả học tập của học sinh

Dạy học nói chung là một quá trình phức hợp của nhiều thành tố bao gồm hoạt động dạy, gợi mở của giáo viên với các hoạt động tự học, trao đổi, thảo luận của học sinh nhằm đạt đến mục tiêu đầu tiên là hình thành tri thức cho học sinh. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại với mục tiêu hình thành tri thức, các hoạt động dạy và học còn nhằm đạt đến các mục tiêu về hình thành, rèn luyện các kĩ năng và giáo dục ý thức, thái độ cho học sinh về bộ môn. Các mục tiêu về kĩ năng thái độ sẽ tác động trở lại, góp phần giúp học sinh nắm vững các kiến thức của bài học sâu sắc hơn.

 Đối với bất cứ nước nào, môn Lịch sử đều có chức năng quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục học sinh- đặc biệt là nhân cách, là tư duy độc lập sáng tạo, là những tố chất tạo nên bản lĩnh con người. Đối với Việt nam, lịch sử càng giữ vai trò quan trọng, lịch sử gắn liền với sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Do vị trí địa - chính trị và địa - quân sự mà từ khi hình thành nhà nước đầu tiên cho đến nay, nước ta phải đương đầu với nhiều nguy cơ xâm lược đến từ các nước lớn của châu Á, châu Âu, châu Mĩ, trong đó thường xuyên nhất là các đế chế phong kiến phương Bắc. Con đường chiến thắng của ta là phải phát huy sức mạnh của cả dân tộc, của toàn dân với chủ nghĩa yêu nước, sự đoàn kết dân tộc và trí thông minh sáng tạo là yếu tố quyết định. Nhân dân ta đã sáng tạo ra lịch sử với tất cả công sức, tính mạng của mình nên qua Lịch sử sẽ nuôi dưỡng ý chí dân tộc và lưu truyền cả một kho tàng kinh nghiêm đánh giặc phong phú, sáng tạo.

 

docx 29 trang thuychi01 11985
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tổ chức hoạt động nhóm và các trò chơi trong tiết 31 - Lịch sử 7 - để nâng cao hiệu quả học tập của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu
 Lý do chọn đề tài
 Mục đích nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu
2
4
4
4
2. Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm
 2.1 Cơ sở lý luận
 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
 2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp
 2.4 Hiệu quả của SKKN
4
6
8
16
3. Kết luận và kiến nghị
17
Tài liệu tham khảo
20
Phụ lục 
21
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Dạy học nói chung là một quá trình phức hợp của nhiều thành tố bao gồm hoạt động dạy, gợi mở của giáo viên với các hoạt động tự học, trao đổi, thảo luận của học sinh nhằm đạt đến mục tiêu đầu tiên là hình thành tri thức cho học sinh. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại với mục tiêu hình thành tri thức, các hoạt động dạy và học còn nhằm đạt đến các mục tiêu về hình thành, rèn luyện các kĩ năng và giáo dục ý thức, thái độ cho học sinh về bộ môn. Các mục tiêu về kĩ năng thái độ sẽ tác động trở lại, góp phần giúp học sinh nắm vững các kiến thức của bài học sâu sắc hơn.
	Đối với bất cứ nước nào, môn Lịch sử đều có chức năng quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục học sinh- đặc biệt là nhân cách, là tư duy độc lập sáng tạo, là những tố chất tạo nên bản lĩnh con người. Đối với Việt nam, lịch sử càng giữ vai trò quan trọng, lịch sử gắn liền với sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Do vị trí địa - chính trị và địa - quân sự mà từ khi hình thành nhà nước đầu tiên cho đến nay, nước ta phải đương đầu với nhiều nguy cơ xâm lược đến từ các nước lớn của châu Á, châu Âu, châu Mĩ, trong đó thường xuyên nhất là các đế chế phong kiến phương Bắc. Con đường chiến thắng của ta là phải phát huy sức mạnh của cả dân tộc, của toàn dân với chủ nghĩa yêu nước, sự đoàn kết dân tộc và trí thông minh sáng tạo là yếu tố quyết định. Nhân dân ta đã sáng tạo ra lịch sử với tất cả công sức, tính mạng của mình nên qua Lịch sử sẽ nuôi dưỡng ý chí dân tộc và lưu truyền cả một kho tàng kinh nghiêm đánh giặc phong phú, sáng tạo.
	Ngày nay, nhiệm vụ bảo vệ đất nước vẫn gắn chặt với nhiệm vụ xây dựng đất nước, giữ gìn chủ quyền, bảo vệ lãnh thổ tổ quốc. Thế hệ trẻ lớn lên qua giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hoá dân tộc cũng như nhân loại, không có niềm tin dân tộc, không kế thừa bản sắc văn hoá của dân tộc thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam để bảo vệ tổ quốc Việt Nam.Từ đó cho chúng ta thấy, môn Lịch sử càng cần phải được đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục quốc dân.
	Tuy nhiên, như Giáo sư Đinh Xuân Lâm từng nói: “Chúng ta vẫn chưa ứng xử với môn sử như một môn khoa học mà chúng ta vẫn ứng xử với nó như một môn tuyên truyền, áp đặt. Bên cạnh cuốn sách giáo khoa, thì giáo viên có cuốn sách giáo viên. Cuốn sách này cung cấp cho giáo viên những công việc của giáo viên khi lên lớp. Trên lớp, giáo viên cũng đặt câu hỏi cho học sinh nhưng chỉ hỏi những câu trong sách giáo khoa. Học sinh cũng chấp nhận sự truyền đạt từ trên xuống dưới mà không chủ động với nội dung của thầy cô giáo”.
Trong những năm qua, khi thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp đã được mọi người quan tâm và khẳng định vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Môn học Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học Lịch sử nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên cùng với các môn học khác, việc học Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh sáng tạo. Đã có quan niệm sai lầm, lệch lạc cho rằng học lịch sử chỉ cần nhớ thuộc lòng, ghi nhớ sự kiện hiện tượng là đạt, không cần phải tư duy, động não, không cần thực hànhĐây chính là một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học, khiến học sinh xa rời môn học.
	Có một công thức mà những người làm giáo dục ai cũng biết, đó là tháp học tập, dựa trên nền tảng tháp nhu cầu của Maslow, trong đó chỉ rõ, người ta học được 10% bằng đọc, 20% bằng nghe, 30% bằng quan sát minh họa, 50% bằng cách kết hợp nghe và quan sát, 70% bằng cách trao đổi với người khác, 80% bằng cách thực hành và 90% bằng cách dạy lại cho người khác.[1]
Hiểu và vận dụng công thức trên, tôi luôn cố gắng hướng dẫn học sinh tăng cường các hoạt động trao đổi, thực hành trong những tiết học phù hợp để các em tiếp thu bài tốt hơn. Vì vậy, tôi chọn đề tài Tổ chức hoạt động nhóm và các trò chơi trong tiết 31- Lịch sử 7 - để nâng cao hiệu quả học tập của học sinh làm sáng
 kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2018-2019 này.
2. Mục đích nghiên cứu.
	Với đề tài này, tôi muốn kiểm nghiệm và chứng minh lại nhận thức của mình về tác dụng của phương pháp dạy học theo hướng tích cực - mà cụ thể là phương pháp tổ chức hoạt động học cho học sinh, hướng dẫn học sinh tự trao đổi và thực hành các nhiệm vụ học tập. Từ đó, để bản thân nỗ lực hơn nữa trong việc thay đổi các phương pháp, hình thức dạy học cho phù hợp với yêu cầu và mục tiêu của Đổi mới giáo dục trong thời gian tới.	
3. Đối tượng nghiên cứu
	Trong phạm vi đề tài này, tôi sẽ trình bày quá trình tiến hành một tiết dạy tại lớp 7A trường THCS Hoằng Trường - Tiết 31 - bài 17 - Lịch sử 7 - Ôn tập chương II và III theo cách hướng dẫn cho học sinh tự trao đổi và thực hành để giải quyết những vấn đề của bài học. Ngoài ra, lớp 7C áp dụng theo cách dạy phát vấn thông thường sẽ là lớp để đối chứng kết quả nghiên cứu.
	4. Phương pháp nghiên cứu
	Tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, sau khi tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy, tôi xác định những nội dung cơ bản của bài học, những nội dung có thể thực hiện thông qua hoạt động trao đổi và thực hành của học sinh; những nội dung dành cho hoạt động nhóm hoặc cá nhân Từ đó thiết kế giáo án lên lớp sao cho phù hợp đối tượng học sinh của mình, phù hợp điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật (phương tiện, thiết bị dạy học) của nhà trường và chú ý đảm bảo những mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ của bài học. Ngoài ra, tôi còn sử dụng các phương pháp phân tích, thống kê và tổng hợp các số liệu đối chứng làm cơ sở cho kết luận của đề tài.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận
Cách đây hơn 70 năm, trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, tháng 9 năm 1945, Bác Hồ viết: “từ giờ phút này trở đi, các em bắt đầu nhận được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nammột nền giáo dục làm phát triển năng lực sẵn có của các em” [2]. 
Mười năm sau, vào ngày 1- 6 - 1955, trong Thư gửi cho các cháu và cán bộ các trường miền Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các cháu nên tự lực cánh sinh cho quen” [3]. 
Những lời căn dặn của người đã luôn được các thế hệ học sinh, giáo viên tâm niệm và thực hiện. Tư tưởng giáo dục của người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình phát triển sự nghiệ giáo dục của nước nhà. Vì vậy, nghiên cứu và thực hiện tốt lời căn dặn của người là trách nhiệm của các nhà quản lý giáo dục, giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục.
Nghị quyết 29 - NQ/TƯ ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu lên quan điểm: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn..”. 
Ngoài ra, Nghị quyết 29 còn nêu lên mục tiêu cụ thể cho giáo dục phổ thông là: “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học”.
Giải pháp được đề ra là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.”
Từ những quan điểm chỉ đạo trên, ngành giáo dục và đào tạo nhiều năm nay đã và đang ra sức thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng cao độ - mà chúng ta thường gọi ngắn gọn là Phương pháp dạy học tích cực.
Theo tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên THCS, Phương pháp dạy học tích cực mang 4 đặc trưng:
 - Một là, dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của hoạt động học - được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên tỏ chức và chỉ đạo, thông qua đó, tự khám phá những điều mình chưa rõ , được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách của mình, từ đó vừa nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa tự “làm ra” kiến thức, kỹ năng đó, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
- Hai là, dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu giáo dục. Trong các phương pháp dạy học tích cực thì tự học là phương pháp cốt lõi. Nếu rèn luyện cho học sinh phương pháp, kỹ năng, thói quen tự học thì sẽ khơi dậy cho các em lòng ham học. Vì vậy, ngày nay, chúng ta chú trọng tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động.
- Ba là, tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác. Trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò-trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tâp thể, ý kiến của mỗi cá nhân được tranh luận, tán thành hay bác bỏ, qua đó, người học nâng mình lên một trình độ mới. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là những lúc xuất hiện vấn đề gay cấn, xuất hiện nhu cầu hợp tác thật sự để hoàn thành nhiệm vụ chung.
- Bốn là, đánh giá của thầy kết hợp với tự đánh giá của trò. Trước đây, giáo viên giữ vai trò độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. [4]
2. Thực trạng của việc dạy và học lịch sử trước khi tiến hành nghiên cứu.
2.1. Thực trạng chung:
 Học lịch sử là học những gì đã xảy ra trong quá khứ; mỗi bài học đều có rất nhiều kiến thức, nhiều sự kiện, khái niệm mà học sinh phải nhớ và hiểu. Nhưng thực tế, học sinh học một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy, học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, nhớ các kiến thức một cách rời rạc và rất nhanh quên.
Ngoài ra, nhiều học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường môn Lịch sử, coi Lịch sử là môn phụ, không cần đầu tư nhiều công sức, nên học sinh không hứng thú với việc học lịch sử, không nắm được những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử.
	Trong điều kiện hiện nay, việc dạy và học lịch sử vẫn còn nhiều bất cập như: chương trình sách giáo khoa quá dài, quá tải về nội dung; nặng về lí thuyết mà có rất ít số tiết thực hành, ôn tập hoặc làm bài tập. Mặc dù chương trình giảm tải đã thực hiện và lược bỏ bớt dung lượng kiến thức trước đó nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với mức độ tiếp nhận kiến thức của học sinh. 
2.2.Thực trạng của giáo viên:
Năm học 2018-2019, trường THCS Hoằng Trường có 18 lớp với 02 giáo viên được đào tạo chính Sử, tức là đã đáp ứng khá đầy đủ so với nhu cầu. Về phương pháp dạy học, chúng tôi đã rất cố gắng cập nhật, thay đổi phương pháp tổ cức dạy học trong phạm vi cho phép của thực tế nhà trường cũng như cho phù hợp với năng lực nhận thức của các đối tượng học sinh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đa số giờ dạy vẫn phải đi theo lối mòn cũ là thực hiện theo lối phát vấn. Tức là giáo viên hỏi, học sinh trả lời theo sách giáo khoa; một số câu hỏi nâng cao dành cho học sinh khá giỏi thì các em mới không lệ thuộc vào sách giáo khoa để nêu suy nghĩ, chính kiến, đánh giá của mình.
Việc đổi mới phương pháp của giáo viên cũng chủ yếu mới chỉ là sử dụng tối đa phương tiện dạy học có sẵn, một số bảng biểu, sơ đồ do giáo viên tự làm, ứng dụng công nghệ thông tin. Trong các tiết ôn tập hoặc làm bài tập, hoạt động chủ yếu của giáo viên là cho học sinh hệ thống lại kiến thức thông qua những câu hỏi tự luận hoặc lập những bảng, biểu thống kê. Cách làm này cũng góp phần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức nhưng vẫn có hạn chế là nếu liên tục như vậy sẽ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú, một số em có thể tận dụng phần phụ lục cuối sách để hoàn thành nhiệm vụ mà chẳng cần suy nghĩ tái hiện kiến thức.
2.3.Thực trạng của học sinh:
	Như đã nói ở trên, môn lịch sử bị học sinh xem như là một môn học phụ dù chưa bao giờ lịch sử mang tên “phụ”. Việc học bài, chuẩn bị bài của học sinh hầu như chỉ mạng tính chất đối phó với việc kiểm tra bài cũ và các con điểm thường xuyên hay định kì trong năm học. Địa phương Hoằng Trường là khu vực trình độ dân trí nhìn chung chưa tốt nên nhận thức trên càng nặng nề và ăn sâu không chỉ với học sinh mà cả với các bậc phụ huynh.
Tôi đã từng tiến hành một cuộc thăm dò nhỏ trong một lớp học và kết quả chỉ có 20 % số học sinh có thái độ tích cực với môn lịch sử; 14,3% không thích và 65,7% có thái độ bình thường. Lí do mà các em đưa ra để lí giải vì sao không thích chủ yếu là do bài học lịch sử quá dài, có nhiều mốc thời gian, có nhiều sự kiện và nhân vật khiến học sinh khó nhớ, khó tiếp thu.. Thậm chí có một em nêu lí do: “Em không thích học môn sử vì em nghĩa rằng môn sử khi mang vào xã hội, chẳng có lợi gì cho chính bản thân em cả. Những hiểu biết về thời xa xưa nếu có hiểu thì cũng chẳng để làm gì cả. Thời nay, xã hội đang phát triển, cần nhiều công nghệ khoa học, có ai lấy kiến thức hiểu biết về dân tộc xa xưa mà phát triển đất nước không? Là không cô ạ. Vì thế em cũng không muốn học môn sử cho lắm dù giáo viên giảng bài thực sự là hay và hấp dẫn”
3. Sáng kiến, giải pháp đã áp dụng
Trên những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, tôi càng chắc chắn rằng, bản thân mình chỉ có thể thay đổi phương pháp tổ chức dạy học để cuốn hút học sinh, từ đó làm chuyển biến thái độ và quan niệm của học sinh đối với môn Lịch sử.
Hệ thống phương pháp dạy học tích cực có rất nhiều nội dung. Tuy nhiên, không thể và không nên áp dụng tất cả các phương pháp trong cùng một tiết học. Hơn nữa, việc lựa chọn phương pháp dạy học tích cực nào thì giáo viên phải căn cứ vào hình thức, nội dung bài học; đặc điểm của đối tượng lớp dạy; điều kiện thiết bị, cơ sở vật chất của nhà trường dành cho nội dung bài học đó..v.v
Những phương pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình dạy học bao gồm: dạy học nêu vấn đề; dạy học trực quan; tổ chức trò chơi; tổ chức hoạt động nhóm; tăng cường sử dụng CNTTRiêng trong nội dung của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi sử dụng hai hình thức tổ chức dạy học, đó là tổ chức trò chơi và tổ chức hoạt động nhóm để giúp học sinh nắm bắt nội dung, yêu cầu của bài học.
3.1 Phương pháp tổ chức hoạt động nhóm:
Tổ chức hoạt động nhóm là một phương pháp có vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực học tập cho học sinh. Có thể nói đây là phương pháp tối ưu mang lại hiệu quả cao nhất trong việc tổ chức các hoạt động học tập. Người học được nêu quan điểm của mình, lắng nghe quan điểm của bạn, được trao đổi, bàn luận, và đưa ra biện pháp phù hợp nhất để hoàn thiện nhiệm vụ của nhóm. Phương pháp này, nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của học sinh. 
Tiến trình thực hiện hoạt động nhóm như sau:
- Bước 1: Giáo viên phân chia và giao nhiệm vụ cho các nhóm.
- Bước 2: Hướng dẫn các nhóm tự phân công nhiệm vụ trong nhóm của mình (cử nhóm trưởng, thư ký, người lên trình bày, công việc cụ thể của từng thành viên..)
- Bước 3: Tổ chức hướng dẫn cho các nhóm giải quyết vấn đề của mình. Chú ý quan sát bao quát lớp để phát hiện những khó khăn của học sinh và có biện pháp hỗ trợ kịp thời và hợp lý.
- Bước 4: Tổ chức cho các nhóm báo cáo trình bày sản phẩm và nhận xét lẫn nhau.
- Bước 5: Giáo viên nhận xét, đánh giá, tổng kết.
3.2. Phương pháp tổ chức trò chơi
Đây là hoạt động dễ lôi cuốn, hấp dẫn học sinh nhất. Các trò chơi không đơn thuần mang tính giải trí mà là một cách để học sinh tiếp thu kiến thức trong không khí, tâm thế sôi nổi hơn, hiệu quả hơn. Có nhiều hình thức tổ chức trò chơi tùy vào năng lực của giáo viên, khả năng thực hiện của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất cho phép của nhà trường cũng như sự phù hợp trong mỗi loại bài học. Do đó giáo viên có thể linh hoạt để lựa chọn hoạt động trò chơi nào là phù hợp nhất.
3.3 Thiết kế giáo án và tổ chức một tiết dạy cụ thể.
PPCT: Tiết 31 - Bài 17
 ÔN TẬP CHƯƠNG II VÀ CHƯƠNG III
A. Mục tiêu:
1. Kiến thức: 
- Củng cố những kiến thức cơ bản về lịch sử thời Lý- Trần - Hồ, đặc biệt là các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm thời Lý và thời Trần
- Ôn luyện để nắm lại những thành tựu chủ yếu về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá của Đại Việt thời Lý, Trần, Hồ.
2. Thái độ:
- Giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc; sự trân trọng biết ơn những người anh hùng dân tộc; xây dựng tinh thần đoàn kết, đồng lòng trong tập thể.
3. Kĩ năng:
- Phản ứng nhanh; chủ động phối hợp và tổ chức làm việc theo nhóm; kĩ năng thuyết trình vấn đề..
- Biết lập bảng thống kê, niên biểu.
B. Tổ chức lên lớp:
B.1. Ổn định nề nếp, điểm danh
B.2. Bài mới:
* Giới thiệu bài: Từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XV ba triều đại Lý - Trần - Hồ thay nhau lên nắm chính quyền. Đó là giai đoạn lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc. Nhìn lại cả một chặn đường lịch sử, chúng ta có quyền tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hôm nay chúng ta cùng nhau ôn lại chặng đường lịch sử hào hùng ấy. 
* GV chia học sinh thành 3 nhóm để tổ chức hoạt động học tập. 
Thành viên nhóm theo tổ học tập; GV cử nhóm trưởng; hướng dẫn các nhóm tự thảo luận, phân công nhiệm vụ: người làm thư ký tổng hợp; người lên trình bày trước lớp
Hoạt động 1: Ôn tập khái quát lịch sử thời Lý, Trần.
Thông qua trò chơi “Ai nhanh hơn” - giáo viên đưa hệ thống câu hỏi, nhóm nào nhanh sẽ được trả lời. Trả lời đúng ghi điểm, trả lời sai thì hai đội khác giành quyền trả lời tiếp theo.
Hệ thống câu hỏi và đáp án như sau:
Câu hỏi
Đáp án
1. Triều Lý được thành lập năm nào?
Năm 1009
2. Vị vua đầu tiên của nhà Lý?
Lý Công Uẩn
3. Năm 1010 diễn ra sự kiện gì?
Lý Công Uẩn dời đô về Đại La (đổi là Thăng Long)
4. Nước Đại Cồ Việt đổi tên thành Đại Việt khi nào?
Năm 1054
5. Bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta có tên là gì? Ra đời khi nào?
Hình thư - Năm 1042
6. Năm 1075-1077 diễn ra sự kiện nào?
Kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt
7. Tướng giặc ra lệnh “Ai bàn đánh sẽ bị chém” tên gì?
Quách Quỳ
8. Vị vua cuối cùng của nhà Lý?
Lý Chiêu Hoàng
9. Nhà Trần thành lập năm nào? Vị vua đầu tiên của nhà Trần là ai?
1224 - Trần Cảnh
10. Thời Trần đã ban hành bộ luật mang tên gì? Ban hành khi nào?
Quốc triều hình luật - 1230
11. Quân đội nhà Trần được xây dựng theo chủ trương như thế nào?
Cốt tinh nhuệ, không cốt đông.
12. “Điền trang”, “thái ấp” là gì?
Đất do khai hoang/ Đất được ban cấp
13. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lần đầu tiên của nhà Trần diễn ra năm năm nào? 
Năm 1258
14. Ai là người lãnh đạo các cuộc kháng chiến năm 1285, 1287-1288?
Trần Quốc Tuấn
15. Tướng giặc “chui vào ống đồng” để chạy thoát về nước có tên là gì?
Thoát H

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_to_chuc_hoat_dong_nhom_va_cac_tro_choi_trong_tiet_31_li.docx