SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực vào Lịch sử 11 bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân pháp

SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực vào Lịch sử 11 bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân pháp

Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đặc biệt cuộc cách mạng 4.0, kiến thức không còn là tài sản riêng của trường học. Học sinh có thể tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh, nguồn khác nhau. Các nguồn thông tin phong phú đa chiều mà người học có thể tiếp nhận đã đặt giáo dục trước yêu cầu cấp bách là cần phải đổi mới cách dạy và học.

Công nghệ thông tin không chỉ có chức năng cung cấp thông tin mà nó còn là công cụ hỗ trợ tích cực trong dạy và học, là phương tiện dạy học hiện đại, hữu ích và hiệu quả. Công nghệ thông tin giúp cho người học mở rộng hiểu biết với tầm nhìn xa, trông rộng qua hệ thống mạng kết nối trong nước và toàn thế giới.

Vấn đề đặt ra với nhà trường là làm thế nào để học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức, tích cực, chủ động, sáng tạo, có kĩ năng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Đó thực sự là những thách thức lớn đối với ngành giáo dục nói chung, nhà trường và giáo viên nói riêng.

Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ việc quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “ truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.

 

doc 18 trang thuychi01 12922
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực vào Lịch sử 11 bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH I
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 
VÀO LỊCH SỬ 11 BÀI 22: XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG CUỘC KHAI THÁC LẦN THỨ NHẤT CỦA THỰC DÂN PHÁP
 Người thực hiện: Trần Thị Hợp
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THPT Yên Định I
 SKKN thuộc môn: Lịch sử
THANH HÓA, NĂM 2019
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. MỞ ĐẦU
2
1.1. Lí do chọn đề tài.
2
1.2 Mục đích nghiên cứu.
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
1.4.1. Về nghiên cứu lí luận
3
1.4.2. Về nghiên cứu thực tiễn
3
2. NỘI DUNG
5
2.1. Cơ sở li luận và thực trạng của vấn đề. 
5
2.1.1. Cơ sở lí luận.
5
2.1.2. Thực trạng của vấn đề.
5
2.2 Tổ chức dạy học theo định hướng năng lực cho học sinh.
6
2.2.1. Dạy học theo định hướng năng lực.
6
2.2.2. Bảng mô tả các mức độ nhận thức trong bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp
6
2.3. Một số giải pháp định hướng năng lực của học sinh thông qua dạy học Lịch sử 11 bài 22 : Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp.
7
Đinh hướng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh qua dạy học nêu vấn đề.
7
2.3.2. Định hướng năng lực tái hiện sự kiện, nhân vật lịch sử cho học sinh.
8
2.3.3. Định hướng năng lực sử dụng đồ dùng trực quan cho học sinh.
9
2.3.4. Định hướng năng lực tổ chức trao đổi, thảo luận nhóm cho học sinh và năng lực lập bảng niên biểu.
11
2.3.5. Định hướng năng lực vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
13
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
15
3.1. Kết luận
15
3.2. Đề xuất
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
16
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC SỞ GD&ĐT ĐÁNH GIÁ
17
PHỤ LỤC
 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đặc biệt cuộc cách mạng 4.0, kiến thức không còn là tài sản riêng của trường học. Học sinh có thể tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh, nguồn khác nhau. Các nguồn thông tin phong phú đa chiều mà người học có thể tiếp nhận đã đặt giáo dục trước yêu cầu cấp bách là cần phải đổi mới cách dạy và học.
Công nghệ thông tin không chỉ có chức năng cung cấp thông tin mà nó còn là công cụ hỗ trợ tích cực trong dạy và học, là phương tiện dạy học hiện đại, hữu ích và hiệu quả. Công nghệ thông tin giúp cho người học mở rộng hiểu biết với tầm nhìn xa, trông rộng qua hệ thống mạng kết nối trong nước và toàn thế giới.
Vấn đề đặt ra với nhà trường là làm thế nào để học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức, tích cực, chủ động, sáng tạo, có kĩ năng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Đó thực sự là những thách thức lớn đối với ngành giáo dục nói chung, nhà trường và giáo viên nói riêng. 
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ việc quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “ truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
Trong xu hướng đó giáo viên không chỉ là người mang kiến thức đến cho học sinh mà cần dạy cho học sinh cách tìm kiếm, chiếm lĩnh kiến thức để đảm bảo cho việc tự học suốt đời. 
Trước vấn đề đặt ra nêu trên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Dạy học theo định hướng năng lực vào Lịch sử 11 bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp ". Với đề tài này sẽ giúp các em phát huy tốt khả năng tự học, chủ động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như từ thực tế các em sẽ học được rất nhiều kiến thức, kỹ năng và giá trị mới; hơn nữa các em còn có thể khám phá các ý tưởng theo sở thích, nguyện vọng của cá nhân cũng như các thành viên trong một nhóm qua đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua tiết học theo phương pháp định hướng năng lưc trong Lịch sử 11 bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức một cách hiệu quả hơn. Đồng thời qua đó giúp học sinh hứng thú hơn với môn Lịch sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 11A3 và 11A10 trường THPT Yên Định 1
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phối hợp nhiều phương pháp trong đó chủ yếu 2 phương pháp
1.4.1. Về nghiên cứu lí luận:
Làm việc trong phòng, tham khảo và đọc tài liệu có liên quan đến đề tài.
1.4.2. Về nghiên cứu thực tiễn:
Soạn và thiết kế giáo án theo phương pháp định hướng năng lực, tiến hành thực nghiệm tại lớp 11A3 và 11A10
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận và thực trạng của vấn đề:
2.1.1. Cơ sở lí luận:
Đặc trưng của môn lịch sử là học sinh không trực tiếp quan sát các sự kiện. Sự kiện đã diễn ra trong quá khứ không lặp lại ở hiện tại và tương lai. Vì vậy học sinh khó hiểu, học sinh chỉ có thể nhận thức được sự kiện qua những kiến thức thầy cô cung cấp. Quá trình nhận thức của học sinh được bắt đầu bằng quan sát (tri giác) tài liệu, từ đó nhớ, hình dung lại để hình thành những biểu tượng. Để tạo được biểu tượng học sinh phải tìm ra bản chất của chúng, tức là hình thành khái niệm lịch sử. Muốn làm được việc này phải thông qua các thao tác tư duy như: đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp...vạch ra dấu hiệu bản chất. Quá trình này không tự diễn ra mà đòi hỏi phải có sự kích thích nhất định cho tư duy. Chính các câu hỏi “như thế nào?”, “tại sao?”... sẽ kích thích óc tìm tòi, sự phân tích, so sánh và khái quát hoá của học sinh. 
Trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong hoạt động học tập. Trong Luật giáo dục đã nêu rõ : “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[1]. Như vậy, chúng ta có thể thấy định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định, không còn là vấn đề tranh luận. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. 
Dạy theo định hướng năng lực cho phép cá nhân hóa việc học: Trên cơ sở mô hình năng lực, người học sẽ bổ sung những thiếu hụt của cá nhân để thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình. 
Dạy theo định hướng năng lực chú trọng vào kết quả đầu ra.
Hơn nữa, dạy theo định hướng năng lực còn có khả năng cho việc xác định một cách rõ ràng những gì cần đạt và những tiêu chuẩn cho việc đo lường kết quả.
Sau khi hoàn thành chuyên đề này học sinh có thể tự học, tự rèn luyện và chủ động hơn trong việc nắm kiến thức và vận dụng vào thực tế .
[ 1] : Điều 24.2 Luật giáo dục
Rõ ràng, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh có
ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.
2.1.2. Thực trạng của vấn đề:
Môn Lịch sử trong trường phổ thông không chỉ trang bị cho các em học sinh vốn kiến thức lịch sử của dân tộc và tìm hiểu lịch sử thế giới mà còn góp phần to lớn trong xây dựng niềm tin, lòng tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống, chủ nghĩa yêu nước, hình thành nhân cách và bản lĩnh con người Việt Nam.
 Tuy nhiên, những năm gần đây, việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã có nhiều tiến bộ về nhận thức. Nhưng nhìn chung, bộ môn lịch sử vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng nước ta hiện nay. Chất lượng bộ môn khá thấp, tập trung ở những lí do sau: 
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng buồn trong việc dạy và học môn lịch sử đã được "điểm mặt, chỉ tên", trong đó có lỗi từ nội dung chương trình, sách giáo khoa nặng nề, hàn lâm và thiếu tính thực tiễn. Việc kiểm tra, đánh giá HS ở môn lịch sử cũng bộc lộ nhiều hạn chế khi chủ yếu yêu cầu học thuộc lòng, ít tạo cho học sinh thói quen độc lập suy nghĩ và hình thành kỹ năng.
Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, học môn Lịch sử khó và không hấp dẫn. Ðã là lịch sử, nhất thiết phải gắn với sự kiện, nhân vật và hiểu lịch sử nhất định phải nắm vững những sự kiện, nhân vật cơ bản, quan trọng trong suốt quá trình hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nội dung trong sách giáo khoa như một "đĩa nén", đầy ắp thông tin mà học sinh không thể nhớ hết được, dẫn đến tình trạng "học trước quên sau". 
Xã hội ta hiện nay chưa coi trọng môn Lịch sử và ngành lịch sử. Môn Lịch sử thường được xếp vào môn học phụ trong nhà trường. do đó, hầu hết các em hiểu sai lệch về môn lịch sử - một số em cho rằng môn Lịch sử chỉ là môn phụ, không có hứng thú để học. Bên cạnh đó học sinh có xu hướng học lệch, phụ huynh muốn học sinh học thêm vì mục tiêu trước mắt chạy theo các môn khoa học tự nhiên, coi nhẹ các môn khoa học xã hội, không hiểu vị trí, đặc trưng của môn lịch sử.
 	Về phía giáo viên, do là một môn phụ, cho nên giáo viên dạy môn Lịch sử chưa tập trung cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy. Tình trạng "dạy chay", đọc – chép, bắt học thuộc lòng một cách máy móc vẫn là tình trạng phổ biến. Điều đó ảnh hưởng tới việc giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh.
Qua thực tế giảng dạy ở trường THPT các năm qua, tôi nhận thấy trong xu hướng hiện nay học sinh không chú trọng nhiều đến môn Lịch sử , một phần nhỏ các em học để thi khối, một phần học để thi môn tự chọn tốt nghiệp. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học để gây hứng thú cho học sinh cũng là một vấn đề cần quan tâm.
 Tuy nhiên cũng có một số lượng không nhỏ học sinh rất yêu thích môn Lịch sử, thích tìm hiểu, thích khám phá.
Vì vậy dạy học theo định hướng năng lực sẽ góp phần giúp học sinh chủ động trong việc nắm kiến thức và hứng thú nhiều hơn đối với môn học.
Xuất phát từ thực trạng trên để việc dạy học lịch sử có hiệu quả tôi mạnh dạn viết sáng kiến: Dạy học theo định hướng năng lực vào Lịch sử 11 bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp. 
2.2 Tổ chức dạy học theo định hướng năng lực cho học sinh.
2.2.1. Dạy học theo định hướng năng lực.	
 Dạy học theo định hướng phát triển năng lực còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra là xu hướng giáo dục quốc tế hiện nay. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể có nghĩa là: 
 Về phương pháp: Giáo viên chủ yếu là người tổ chức hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp. Chú trọng sử dụng các quan điểm phương pháp dạy học tích cực, các phương pháp dạy học thực nghiệm thực hành
 Hình thức dạy học: Tổ chức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
 Kết quả HS với vai trò chủ thể đạt được là các chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình đã được Bộ giáo dục quy định, trong đó chú trọng đến khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tiễn và kết quả này có tính đến sự tiến bộ, thái độ trong quá trình học tập. Nói một cách khác kết quả học tập của học sinh đạt được là “bốn H”: Học để biết- Học để làm- Học để cùng chung sống và học để tự khẳng định.
 Dạy học theo định hướng phát triển năng lực không chỉ chú ý về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn và nâng cao hứng thú cho người học.
2.2.2. Bảng mô tả các mức độ nhận thức trong bài 22 : Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp.
Chủ đề, Nội dung
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng thấp
Vận dụng cao
Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp
- Trình bày được hoàn cảnh lịch sử, nội dung của cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp
Nắm được sự chuyển biến về kinh tế và xã hội nước ta dưới tác động của cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp
Thấy được các mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ bao gồm mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ.
- Nắm được trong các mâu thuẫn đó mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.
- Để giải quyết mâu thuẫn đó phong trào đấu tranh bùng nổ mạnh mẽ và theo hai khuynh hướng khác nhau
Những năng lực có thể hướng tới:
1.Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề; năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác; năng lực sử dụng ngôn ngữ...
2. Năng lực chuyên biệt: Sử dụng đồ dùng trực quan; làm việc nhóm, .
2.3. Một số giải pháp định hướng năng lực của học sinh thông qua dạy học lịch sử 11 bài 22 : Xã hội Việt Nam trongcuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp.
2.3.1.Đinh hướng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh qua dạy học nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề tức là đưa ra những tình huống mà ở đó gợi cho người học những khó khăn về lí luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết phải vượt qua và có khả năng vượt qua nhưng không phải ngay tức thời mà phải có quá trình tư duy tích cực, vận dụng liên hệ những kiến thức có liên quan
Ở bài 22 : Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp khi giáo viên dạy phần khởi động sẽ chiếu slide 1 đưa ra 4 bức ảnh như hình 
Sau khi giới thiệu về nội dung 4 bức ảnh và cho học sinh quan sát giáo viên sẽ đưa ra tình huống có vấn đề : Những bức ảnh đó nói lên điều gì? 
Để trả lời được câu hỏi này học sinh buộc phải tư duy nhớ lại kiến thức cũ cùng với việc sâu chuỗi các sự kiện để trả lời câu hỏi. Sau khi học sinh trả lời giáo viên sẽ chốt ý và dẫn dắt vào bài mới.
Từ quá trình đó, định hướng năng lực giải quyết vấn đề của học sinh sẽ được hình thành.
2.3.2. Định hướng năng lực tái hiện sự kiện, nhân vật lịch sử cho học sinh.
Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử của học sinh được thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ nói và viết. Để hình thành năng lực này cho học sinh giáo viên cần hướng dẫn học sinh phải nắm vững các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ; ngôn ngữ trình bày chính xác, rõ ràng ; có thể kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo. 
 	Ở bài này khi tìm hiểu mục 1 : Những chuyển biến về kinh tế giáo viên đưa ra câu hỏi : Trình bày nội dung cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp? 
Để hình thành năng lực tái hiện lịch sử cho học sinh giáo viên có thể chiếu lược đồ về các nguồn lợi của Pháp ở Việt Nam, kết hợp với kiến thức trong sách giáo khoa trang để tìm hiểu về nội dung cuộc khai thác.
Để giúp học sinh trả lời giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở cho học sinh: 
Kể tên một số nguồn lợi của Pháp ở Việt Nam? Các nguồn lợi đó nói lên điều gì? 
Học sinh sau khi suy nghĩ giáo viên có thể gọi học sinh lên bảng yêu cầu chỉ vào lược đồ và trình bày .
Sau khi học sinh lên trình bày giáo viên chốt ý: Ở Việt Nam có nhiều nguồn lợi khoáng sản như thiếc, chì, kẽm, than đá; bên cạnh đó còn nhiều có nguồn lợi về nông nghiệp như đồn điền cao su, đồn điền lúa, chè, cà phê. Mục đích của Pháp trong cuộc khai thác này là vơ vét tài nguyên thiên nhiên, bóc lột sức lao động của nhân dân. Để thực hiện được mục đích đó Pháp tập trung cuộc khai thác vào lĩnh vực nông nghiệp “ép trều đình nhà Nguyễn “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho chúng” [2] và công nghiệp trong đó chú trọng nhất vào khai khoáng và mỏ. 
2.3.3. Định hướng năng lực sử dụng đồ dùng trực quan cho học sinh.
 	 Đồ dùng trực quan quy ước đơn giản gồm: các loại bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên biểu 
Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy được tính tích cực của tư duy học sinh, giáo viên cần tuân thủ các bước sau:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát nội dung tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2: Giáo viên nêu câu hỏi, nêu vấn đề, tổ chức hướng dẫn HS tìm hiệu nội dung tranh ảnh.
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi đã quan sát, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung trong bài học.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung học sinh trả lời, hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh cung cấp cho học sinh.
Ở bài 22 khi giáo viên dạy mục 1 : Những chuyển biến về kinh tế giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu về hoàn cảnh, mục đích, nội dung của cuộc khai thác sau đó giáo viên sẽ chiếu slide về Biểu đồ Thực dân Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và biểu đồ tổng lượng khai thác than.
Sau khi hướng dẫn học sinh quan sát hai biểu đồ giáo viên đưa ra câu hỏi : Qua hai biểu đồ em có nhận xét gì về cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ? 
[2] : Sách giáo khoa Lịch sử 11 trang 137
Tổng sản lượng khai thác than
285.915 tấn
 415.000 tấn
500.000 tấn
Tấn
Năm
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
350000
400000
450000
500000
1903
1912
1913
Để trả lời được câu hỏi này học sinh sẽ phải suy nghĩ cùng với việc huy động các kiến thức thầy cô cung cấp và từ đó học sinh sẽ rút ra được trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất Pháp tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp trong đó lĩnh vực được chú trọng nhất là khai thác mỏ và khoáng sản. Qua việc trả lời câu hỏi này định hướng năng lực tư duy của học sinh hình thành và học sinh sẽ tích cực chủ động học tập.
Khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về chuyển biến của kinh tế Việt Nam dưới tác động cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất giáo viên có thể đưa ra sơ đồ :
Sau đó giáo viên sẽ đưa ra câu hỏi: Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến như thế nào?[3]
Học sinh quan sát sơ đồ kết hợp với kiến thức trong sách giáo khoa cùng với sự hướng dẫn của giáo viên sẽ đưa ra câu trả lời đó là: dưới tác động cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cơ cấu kinh tế Việt Nam có sự thay đổi, xuất hiện nhiều ngành mới như công nghiệp, giao thông vận tải; phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước được du nhập vào nước ta; tuy nhiên Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội.
	Qua câu trả lời định hướng năng lực sử dụng đồ dùng trực quan của học sinh được hình thành và phát triển sẽ kích thích sự tích cực học tập của học sinh.
2.3.4. Định hướng năng lực tổ chức trao đổi, thảo luận nhóm cho học sinh và năng lực lập bảng niên biểu.
	Trong giờ học lịch sử, giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi và bài tập nhận 
thức để tiến hành phát vấn học sinh, trao đổi đàm thoại dưới các hình thức làm
việc như: cá nhân kết hợp với cả lớp, thảo luận nhóm (nhóm đôi, nhóm nhiều học sinh)... Ở đây, tôi đề cập đến một hình thức học tập rất có ưu thế để định
[3]: Sách giáo khoa Lịch sử 11 trang 138
 hướng năng lực học sinh đó là thảo luận nhóm.
	Để tiến trình thảo luận nhóm đạt kết quả tốt, trước hết giáo viên phải tiến hành chia nhóm và giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Có thể là làm việc theo từng cặp hoặc thảo luận với nhóm nhiều học sinh (từ 4-6 học sinh), nhiều quá học sinh ít có cơ hội trao đổi. Tiếp đến, tổ chức cho học sinh làm việc nhóm, phân công một học sinh phụ trách nhóm (nhóm trưởng) để điều khiển nhóm hoạt động và một học sinh ghi chép tổng hợp kết quả thảo luận được nhóm thống nhất thông qua, lập kế hoạch làm việc, tiến hành thảo luận, tranh luận, thống nhất ý kiến và cử một đại diện nhóm trả lời. Bước thứ ba là trình bày và đánh giá kết quả. Đại diện các nhóm trình bày kết quả trư

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_day_hoc_theo_dinh_huong_phat_trien_nang_luc_vao_lich_su.doc