SKKN Dạy học hoá học gắn với thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh THCS
Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm và lí thuyết. Nét đặc thù của phương pháp học hoá học là có sự kết hợp giữa thực nghiệm khoa học với tư duy lí thuyết đề cao vai trò của học thuyết, giả thuyết, định luật hoá học và coi chúng như công cụ cho sự tiên đoán khoa học. Mục đích của môn hoá học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học , giờ thực hành của hoá học.Song , nếu chỉ dùng lời nói và chữ viết thì không thể diễn tả được hết những hiện tượng phong phú và phức tạp của sự biến đổi hoá học trong vật chất.
Với bộ môn hóa học mà tính thực nghiệm được gắn liền với các bài giảng hàng ngày thì việc định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng phải có sự khác biệt nhiều so với các môn học khác. Ngoài các phương pháp dạy học tích cực được sử dụng thường xuyên như: nêu và giải quyết vấn đề; thảo luận nhóm, đàm thoại gợi mở Nhằm nâng cao khả năng tiếp thu, tính chủ động sáng tạo trong bộ môn Hoá học của học sinh thì việc gắn các kiến thức thực tế bộ môn vào các bài giảng hàng ngày trong giảng dạy Hoá học ở các trường THCS hiện nay ít được chú trọng có thể nói là “đối phó”- chỉ được vận dụng vào các bài giảng khi thao giảng bộ môn Hoá học ở các cấp. Vậy vấn đề đặt ra là dạy môn Hoá học như thế nào để học sinh yêu thích ? Bởi vì, với môn Hoá học là học các khái niệm, định luật, các hiện tượng, bản chất hoá học nhiều khi trừu tượng , khó hiểu khô cứng làm cho học sinh khó tiếp thu, dễ nhàm chán , đặc biệt đối với những học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng chán và sợ bộ môn Hoá học. Và hơn nữa trong chương trình sách giáo khoa THCS số lượng các bài tập thực tiễn vô cùng “khan hiếm” , nếu có gặp thì chỉ xảy ra ở các kì thi học sinh giỏi. Chủ yếu trong chương trình học bộ môn Hoá học, các em học sinh có thể giải các bài tập định tính, định lượng về cấu tạo chất, sự biến đổi các chất nhưng khi cần phải dùng kiến htức hoá học để giải quyết một tình huống cụ thể trong thực tiễn thì lại rất lúng túng.
PHẦN I: MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm và lí thuyết. Nét đặc thù của phương pháp học hoá học là có sự kết hợp giữa thực nghiệm khoa học với tư duy lí thuyết đề cao vai trò của học thuyết, giả thuyết, định luật hoá học và coi chúng như công cụ cho sự tiên đoán khoa học. Mục đích của môn hoá học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học , giờ thực hành của hoá học.Song , nếu chỉ dùng lời nói và chữ viết thì không thể diễn tả được hết những hiện tượng phong phú và phức tạp của sự biến đổi hoá học trong vật chất. Với bộ môn hóa học mà tính thực nghiệm được gắn liền với các bài giảng hàng ngày thì việc định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng phải có sự khác biệt nhiều so với các môn học khác. Ngoài các phương pháp dạy học tích cực được sử dụng thường xuyên như: nêu và giải quyết vấn đề; thảo luận nhóm, đàm thoại gợi mở Nhằm nâng cao khả năng tiếp thu, tính chủ động sáng tạo trong bộ môn Hoá học của học sinh thì việc gắn các kiến thức thực tế bộ môn vào các bài giảng hàng ngày trong giảng dạy Hoá học ở các trường THCS hiện nay ít được chú trọng có thể nói là “đối phó”- chỉ được vận dụng vào các bài giảng khi thao giảng bộ môn Hoá học ở các cấp. Vậy vấn đề đặt ra là dạy môn Hoá học như thế nào để học sinh yêu thích ? Bởi vì, với môn Hoá học là học các khái niệm, định luật, các hiện tượng, bản chất hoá học nhiều khi trừu tượng , khó hiểu khô cứng làm cho học sinh khó tiếp thu, dễ nhàm chán , đặc biệt đối với những học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng chán và sợ bộ môn Hoá học. Và hơn nữa trong chương trình sách giáo khoa THCS số lượng các bài tập thực tiễn vô cùng “khan hiếm” , nếu có gặp thì chỉ xảy ra ở các kì thi học sinh giỏi. Chủ yếu trong chương trình học bộ môn Hoá học, các em học sinh có thể giải các bài tập định tính, định lượng về cấu tạo chất, sự biến đổi các chất nhưng khi cần phải dùng kiến htức hoá học để giải quyết một tình huống cụ thể trong thực tiễn thì lại rất lúng túng. Môn Hoá học trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản để học sinh không bối rối trong các tình huống gặp phải trong tự nhiên, giải thích được các hiện tượngt ự nhiên, không mê tín dị đoan có niềm tin vào khoa học. Môn Hoá học giáo dục cho các em ý thức bảo vệ tự nhiên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống trước những hiểm hoạ môi trường do con người gây ra trong thời kì công nghiệp hoá. Môn hoá học là môn học thực nghiệm thú vị hấp dẫn nhưng cũng không phải dễ học, không phải học sinh nào cũng học tốt môn học này nếu không có phương pháp học thích hợp chính vì vậy mà tỉ lệ học sinh học yếu môn Hoá học là nhiều. Xuất phát từ những thực tế đó và với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Hoá học , tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn Hoá học của học sinh THCS, người giáo viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học thì cần khai thác thêm các hiện tượng hoá học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm góp phần thực hiện nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn. Chính vì những lý do trên , tôi đã chọn đề tài: “ Dạy học hoá học gắn với thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh THCS” với mục đích góp phần sao cho học sinh học hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”. II. Mục đích nghiên cứu. Xây dựng một hệ thống các hiện tượng hoá học thực tiến có thể vận dụng vào bài giảng trong chương trình Hoá học THCS. Vận dụng hệ thống các hiện tượng hoá học thực tiễn vào bài giảng nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ môn cho học sinh; làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. 1. Đối tượng nghiên cứu Quá trình dạy học bộ môn Hoá học tại các lớp : 8A1, 8A2, 8A5, 9A3, 9A5 Và đội tuyển học sinh giỏi hoá của trường THCS Quang Trung - Thành phố Thanh hoá. 2 .Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp dạy học tích cực , phương pháp tích hợp môi trường, kĩ năng vận dụng kiến thức trong học tập và liên hệ thực tiễn của bộ môn học. 3.Phạm vi nghiên cứu Các bài dạy trong chương trình hoá học lớp 8 , 9. PHẦN 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng hướng thiện khoa học. Từ thực tiễn dạy học, tôi đã thấy rằng: “ Dạy học hoá học gắn với thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh THCS” sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê; học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong học hóa học. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng học sinh ở thành thị, nông thôn ; đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ”. II.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trong quá trình giảng dạy bộ môn Hoá học, giáo viên không những cung cấp cho học sinh kiến thức mà còn hướng dẫn cho học sinh con đường tìm đến kiến thức.Thực tế kiến thức càng thiết thực, hấp dẫn, lôi cuốn thì học sinh càng dễ dàng tiếp nhận và nhớ lâu. Tuy nhiên, trong mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến thức không đồng nhất. Trước tình hình học Hoá học là phải đổi mới phướng pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẽ, đảm bảo: tính khoa học- hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp, tính hệ thống sư phạm. Mục đích của việc học hoá học giúp cho học sinh nhận diện thế giới quan một cách đúng đắn và hoàn chỉnh thông qua các bài học, tiết học, tiết thực hành của môn hoá học, là sự khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ cho đời sống con người. Khi dạy kiến thức hoá học trong bất kì nội dung bài nào: cấu tạo nguyên tử, phương trình hoá học, dung dịch, tính chất của kim loại, muối cacbonatđều liên quan đến các hiện tượng vật lí hay nhiều hiện tượng thiên nhiên nên khi sử dụng những câu hỏi mở rộng theo hướng tích hợp làm cho học sinh chủ động tìm tòi câu trả lời, đồng thời thấy được mối liên quan giữa môn hoá học với một số môn học khác. Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh cách thiết lập sự liên hệ các nội dung học với thực tiễn, học sinh sẽ thấy hứng thú và dễ ghi nhớ hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn luôn có định hướng liên hệ giữa kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hằng ngày. III.Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề * Các giải pháp thực hiện: “ Dạy học hoá học gắn với thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh THCS” bằng cách: -Kiến thức được đưa vào các tình huống phải đảm bảo tính chính xác, khoa học, gắn liền với thực tiễn cuộc sống và có tính ứng dụng cao. Các kiến thức được lựa chọn nên hướng vào trọng tâm của nội dung bài học, ngắn gọn, vừa sức và thể hiện tính phù hợp với tâm sinh lí của học sinh. -Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống, thường sau khi kết thúc một phần học hoặc kết thúc bài học.Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay lúc gặp hiện tượng đó. -Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thường thay cho lời giới thiệu bài mới nhằm tạo sự chú ý, lôi cuốn học sinh trong tiết học. -Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học, làm cho học sinh khắc sâu bài học và thấy được ý nghĩa thực tiễn. -Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thông qua các bài tập tính toán. Nhằm giúp học sinh lĩnh hội lại được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. - Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thông qua một vài câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài , gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Nhằm góp phần tạo không khí học tập thoải mái, kích thích niềm đam mê hoá học. * Cách tổ chức thực hiện: - Mục đích của dạy học tình huống nhằm kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh. Để tổ chức thực hiện được, giáo viên cần phải xác định mục tiêu và nội dung chính trong bài để thiết lập câu hỏi liên quan để xem sự lựa chọn câu hỏi đó dễ hay khó, thời gian giải quyết trong bao lâu giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như: bằng hình ảnh, đoạn phim, báo điện tử, bài hát, ca daonhững thông tin này phải đủ thuyết phục và có chất lượng. Sau khi lựa chọn những thông tin cần thiết, giáo viên cần lựa chọn hình thức và kĩ thuật thiết kế nhằm khai thác tối đa giá trị của tình huống đem lại. Tuỳ theo nội dung và điều kiện cụ thể , giáo viên có thể thiết kế tình huống dưới các hình thức sau: -Đặt tình huống vào bài mới: Tiết dạy có gây được sự chú ý của học sinh hay không là nhờ vào người hướng dẫn. Trong đó, phần mở đầu bài học là rất quan trọng nếu chúng ta biết đặt ra một tình huống thực tiễn để học sinh tìm hiểu. - Lồng ghép tích hợp môi trường trong bài dạy: như khói bụi nhà máy, nước thải sinh hoạt , rau quả thực phẩm có hoá chất Giáo viên dạy học bộ môn hóa có thể lồng ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng của một số chất... Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực trạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gũi với các em. - Liên hệ thực tế trong bài học: Một vấn đề của bài học mà học sinh thấy có nhiều ứng dụng trong thực tiễn thì các em sẽ chú ý nhiều hơn, chủ động tư duy để tìm hiểu,để nhớ hơn. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. * Để hoàn thành được tình huống vận dụng kiến thức thực tế vào từng bài học sao cho học sinh có thể tiếp nhận một cách nhẹ nhàng và có hiệu quả nhất thì bản thân giáo viên có thể tham khảo thêm ý kiến đồng nghiệp hay những người có chuyên môn liên quan trong việc chỉnh sửa các chi tiết chưa hợp lí sẽ làm tăng giá trị của tình huống khi sử dụng. Cụ thể, trong chương trình THCS các hiện tượng thực tế đựơc ứng dụng trong các bài học sau: HOÁ HỌC LỚP 8: Câu hỏi 1: Khí oxi rất cần cho sự sống( trong quá trình hô hấp) của sinh giới nhưng nếu lượng oxi quá cao thì có ảnh hưởng đến sự sống như thế nào? Trả lời: Khí oxi cần cho quá trình hô hấp, nhưng nếu hít thở 80% oxi trong 12 giờ sẽ gây kích thích đường hô hấp cuối cùng là có thể bị tràn dịch hoặc phù nề. Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào mục III: “Ứng dụng của oxi” bài ở Bài 25: sự oxi hoá- phản ứng hoá hợp- ứng dụng của oxi. Câu hỏi 2 : Oxi có vai trò thế nào đối với sự hô hấp? Trả lời: Không khí là hỗn hợp gồm72,9% nitơ, 20,94% oxi và một lượng nhỏ khoảng 0,16% gồm các khí cacbonic, heli, xenon.... -Khi hô hấp , ta hít không khí vào và thở ra khí CO2, N2 và một lượng nhỏ O2 chưa sử dụng hết , ngoài ra còn có thêm lượng nhỏ các chất là sản phẩm của những phản ứng sinh hoá phức tạp diễn ra trong cơ thể. -Cơ thể cần được bổ sung oxi thường xuyên. Dưới áp suất thường nếu lượng oxi thấp dưới 16% là bắt đầu hiện tượng thiếu oxi, gây ra bất tỉnh đột ngột. Tuy vậy, chúng ta không thể thở bằng oxi tinh khiết mà phải thở bằng oxi được pha loãng bằng khí nitơ. Nếu thở bằng khí oxi tinh khiết thì ngay cả người khoẻ mạnh cũng chỉ sau 2-3 ngày đêm là bắt đầu bị phù phổi. Áp dụng: Con người ,ai cũng biết hô hấp là hít khí oxi vào nhưng cần phải trang bị cho các em lượng kiến thức để hiểu oxi nào thì đi vào cơ thể . GV áp dụng vào bài ứng dụng của oxi trong bài: Oxi. Sự oxi hoá. Câu hỏi 3: Vì sao khi quạt gió vào bếp củi vừa mới tắt thì lửa sẽ bùng cháy ? Còn khi quạt gió vào ngọn nến thì nến lại tắt? Trả lời: - Lửa sẽ bùng cháy, do: khi quạt gió vào bếp củi thì lượng oxi tăng lên, sự cháy diễn ra mạnh hơn nên lửa sẽ bùng lên. Còn ngọn nến tắt là do ngọn lửa nến đang cháy thì nhỏ, khi quạt lượng gió vào nhiều sẽ làm nhiệt độ hạ thấp đột ngột. Áp dụng: Giáo viên có thể đựt câu hỏi cho phần củng cố của bài : Không khí. Sự cháy. Câu hỏi 4: Tại sao đường tan vào nước nóng nhanh hơn tan vào nước lạnh? Trả lời: Trong cốc nước nóng: nhiệt độ cao hơn nên các phân tử nước và các phân tử đường chuyển động hỗn độn nhanh hơn nên hiện tượng khuếch tán xảy ra nhanh hơn. Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên sau khi học sinh học xong mục II2: những yếu tố ảnh hưởng đến độ tan trong bài 41: Độ tan của một chất trong nước. HOÁ HỌC LỚP 9: CHƯƠNG I: CÁC HỢP CHẤT VÔ CƠ Câu hỏi 5: Tại sao khi tôi vôi, người ta thường bỏ vôi xuống hố trước rồi mới dẫn nước vào hố ? Trả lời: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit: CaO + H2O Ca(OH)2 Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi ( trong vài ngày sau khi tôi vôi) để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài ở Bài 2: Một số Oxit quan trọng. Câu hỏi 6: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ? Trả lời: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy...) có chứa các khí SO2, NO, NO2,Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3. 2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4 2NO + O2 → 2NO2 4NO2 + O2 + 2H2 O → 4HNO3 Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của mưa axit là axit H2SO4- là nguồn ô nhiễm chính ở một số nước tên thế giới: làm mùa màng thất thu, phá huỷ các công trình xây dựng... ( Tượng và Cây cối bị tàn phá bởi mưa axit) Áp dụng: Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên liên hệ tích hợp môi trường trong bài 2: Một số Oxit quan trọng : Lưu huỳnh đioxit. Câu hỏi 7: Tại sao “viên sủi” cho vào nước lại sủi bọt? Trả lời: Trong “viên sủi” có những chất hoá học có tác dụng chữa bệnh, ngoài ra còn có một ít bột natrihidrocacbonat: NaHCO3 và bột axit hữa cơ như axit xitric (axit có trong quả chanh).Khi “viên sủi ” gặp nước tạo ra dung dịch axit. Dung dịch này tác dụng với muối NaHCO3 sinh ra khí CO2. Khí này thoát ra khỏi cốc nước dưới dạng bọt khí. Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi củng cố bài( phần mở rộng tính chất hóa học của axit) trong bài 3: Tính chất hoá học của axit . Câu hỏi 8 : Tại sao không nên đổ nước vào axit mà phải cho từ từ axit vào nước? Trả lời: Axit H2SO4 đặc sánh như dầu và nặng hơn nước. Nếu cho nước vào axit , nước sẽ nổi lên trên bề mặt axit xảy ra phản ứng hoá học, nước sôi mãnh liệt và bắn tung toé gây nguy hiểm. Trái lại , cho axit vào nước và cho từ từ rồi khuấy đều thì axit sẽ chìm xuống. Ngoài ra không nên pha axit này trong bình thuỷ tinh mỏng, tránh bị vỡ. Áp dụng: Có những vụ án mạng tạt axit H2SO4 đặc – rất nguy hiểm. Vậy vấn đề sử dụng nó như thế nào để an toàn thì chúng ta cần phải pha loãng axit để làm thí nghiệm. Giáo viên có thể nêu vấn đề trong bài 4: “ Một số axit quan trọng: H2SO4”. Câu hỏi 9 : Tại sao khi quét vôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại ? Trả lời: Vôi là canxi hiđroxit, là chất tan ít trong nước nên khi cho nước vào tạo dung dịch trắng đục, khi quét lên tường thì Ca(OH)2 nhanh chống khô và cứng lại vì tác dụng với CO2 trong không khí theo phương trình: Ca(OH)2 + CO2 CaCO3 + H2O Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố tính chất hóa học của canxi hiđroxit ở Bài 8: “Một số Bazơ quan trọng- Ca(OH)2”. Câu hỏi 10: Để bảo quản trứng tươi lâu, người ta đã nhúng trứng vào dung dịch nước vôi trong rồi vớt ra để ráo, em hãy giải thích việc làm trên. Trả lời: Trên bề mặt vỏ trứng gia cầm có những lỗ khí nhỏ nên không khí và vi sinh vật có thể xâm nhập, hơi nước trong trứng thoát ra, lượng cacbon đioxit tích tụ trong trứng tăng làm trứng nhanh bị hỏng. Khi ngâm trứng trong dung dịch nước vôi sẽ xảy ra phản ứng: CO2 + Ca(OH)2 CaCO3 + H2O CaCO3 sinh ra bịt các lỗ khí đó ngăn cản không khí và vi sinh vật có thể xâm nhập vào trứng, hơi nước trong trứng không thoát ra được, trứng được tươi lâu hơn. Áp dụng: Đây là kinh nghiệm nhỏ trong đời sống hằng ngày của mỗi gia đình. GV có thể đặt câu hỏi củng cố bài 8: Một số bazơ quan trọng- Ca(OH)2 . Câu hỏi 11 :Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn (NaCl)? Trả lời: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC. Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn. Áp dụng: Vấn đề này giáo dục cho các em cách luộc rau như thế nào để không bị mất vitamin- một phương pháp chế biến khoa học. Có thể đưa hiện tượng này vào trong bài 10 : “Một số muối quan trọng – NaCl”. Câu hỏi 12 : Cao dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” Câu này mang hàm ý của khoa học như thế nào, có liên quan đến hóa học hay không ? Trả lời: Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động: xt, t0 , P N2 + O2 D 2NO Sau đó: 2NO + O2 à 2NO2 Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa: 4NO2 + O2 + 2H2O à 4HNO3 Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 − 7 kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây trồng. Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề này được vận dụng trong dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Câu hỏi 13 :Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ? Trả lời: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3 cung cấp nguyên tố kali cho cây. Áp dụng: Giáo viên có thể đặt 2 câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài hoặc liên hệ thực tế trong ở bài 16: Phân bón hoá học. Câu hỏi 14 : Tại sao trên bề mặt hố vôi thường có một lớp váng màu trắng đục nổi phía trên? Trả lời: - Do CO2 trong không khí tác dụng với dd Ca(OH)2 tạo CaCO3 : CO2 + Ca(OH)2 CaCO3 + H2O Do sức căng bề mặt nên váng( CaCO3) nổi lên trên. Nếu ta đụng vào váng thì nó sẽ vỡ ra và rơi xuống. Áp dụng: Đây là một hiện tượng thấy ở các hố tôi vôi. Giáo viên có thể áp dụng trong phần mở rộng của bài 13: “ Luyện tập chương 1: Các loại hợp chất vô cơ ” Học sinh vận dụng bài tập này để các em suy luận được bài tập số 2 trang 43- Sách giáo
Tài liệu đính kèm:
- skkn_day_hoc_hoa_hoc_gan_voi_thuc_tien_nham_tang_hung_thu_ho.doc